Huyền Thoại và Truyện Kể
THEODOR H.GASTER
* MỘT PHƯƠNG PHÁP MỚI TIẾP CẬN
HUYỀN THOẠI
*TRUYỆN HUYỀN THOẠI
-Truyện Huyền thoại và Truyện tưởng tượng
- Quá trình phát triển của Truyện Huyền thoại
- Việc diễn đạt Huyền thoại trong Truyện
- “Sự thật” về Huyền thoại
-Những điều phản đối được trả lời
***
(Tiếp theo)
Quá trình phát triển của Truyện
Huyền thoại
27. Truyện Huyền thoại trải qua bốn giai đoạn phát triển chủ yếu.
Các giai đoạn này trải qua sự suy thoái không ngừng về các đặc trưng chức năng
của nó xác định. Có thể chúng được gọi tên theo sự thuận tiện như: a) sơ khai;
b) kịch tính; c) nghi thức tế lễ; và d) văn chương.
a) Trong giai đoạn sơ khai thì truyện là một vật phụ thuộc trực
tiếp của nghi lễ được thể hiện với mục đích thực dụng thuần tuý, và nó đại diện
cho hiện tại nhiều đặc trưng về nghi lễ đó, pari passu, về mặt ý tưởng của
chúng – đó là khi cacù sự việc bất ngờ trong tình huống vượt trội. Tuy nhiên,
giai đoạn này thì giống như người A-ri-an cổ hay hệ ngôn ngữ Xê-mít – thêm một
giản đồ được thừa nhận hơn là sự việc được dẫn chứng bằng tài liệu. Đó là điều
được phỏng đoán bởi tất cả các giai đoạn kế tiếp, nhưng thật khó để tìm ra ví
dụ cốt lõi của nó, nhìn chung nó được tái thiết chỉ bằng qúa trình “làm việc
qua lại”.
b) Trong giai đoạn kịch tính nghi lễ hay việc thờ cúng đã được
ăn khớp nhau trong việc diễn kịch câm thực thụ về truyện đó. Cái sau đó do vậy
phục vụ như một lời nhạc kịch đơn thuần hay “kịch bản”.
Ví dụ rõ ràng nhất của giai đoạn
này là nghi lễ ở Anh được Saint George ban cho.ý nghĩa chức năng thuần tuý về việc giết chết quỷ Sa tăng vào các mùa
quyết định trong năm. Sự cử hành đã trở
thành việc miêu tả thuần tuý trên sân khấu trong truyện của Saint George và
trong mỗi trường hợp việc kể lại đi cùng chẳng là cái gì cả mà là một “sự ghi
lại ngôn từ” được biên soạn chỉ cốt để làm phù hợp với động thái.
Thêm một vài ví dụ xưa có lẽ cũng được trích dẫn. Có lẽ điểm nổi
bật nhất về những ví dụ này là “Vở kịch lên ngôi” của người Ai Cập được biên
soạn trong triều đại đâu tiên (năm 3300 trước công nguyên) và được phát hiện
vào năm 1898 ở ranh giới Ramesseum tại Thebes. Tại đây những đặc điểm nổi bật
của lễ hội hàng năm kéo theo việc xác định lại vị quốc vương được trình bày
không chỉ trong truyện kể mà cả về nghi
lễ thờ cúng theo sắp đặt của Horus là vua Ai Cập thống nhất sau sự tan rã nhóm.
Tuy nhiên chẳng có một câu hỏi nào về sự huyền ảo hóa Huyền thoại thuần tuý cả;
người tham gia thực hiện các vai chính trong truyện. Quả thực, vào cuối hầu như
từng cảnh trong đoạn truyện có vài điểm nhận biết cụ thể cách thức và nơi diễn
kịch nghệ vị trí của cốt truyện.
Một ví dụ điển hình khác ở giai
đoạn này là Thơ về Chúa nhân từ Urgaritic được phát hiện năm 1930 tại Ras
Shamra ở biển bắc Syria.
Bản sao của chúng ta ghi lại khoảng từ nửa cuối thế kỷ 14 TCN nhưng việc tự bố
cục có lẽ lại theo cổ điển truyền thống và do vậy thậm chí còn cổ điển hơn. Đề
tài này (rủi thay vẫn chưa hoàn chỉnh) phân tách rõ rệt thành hai phần – Phần
thứ nhất có đoạn việc và đoạn trích ngắn các nhạc phẩm trong các nghi lễ, và
phần thứ hai có một truyện kể mạch lạc nhiều hơn hay ít hơn dẫn đến ngày sinh
của Chúa nhân từ trong nghi lễ thờ cúng
nhìn bề ngoài như đã diễn ra. Ơû đây ta có sự pha trộn lạ lùng giữa giai đoạn ù
một và giai đoạn hai về truyện kể Huyền thoại. Ví dụ trong phần một thì thủ tục
chức năng thuần tuý trong bài ca hò kèm theo được cho là Huyền thoại về linh
hồn sinh sản bên trong. Tương tự, điều đó dường như là bằng chứng đào bới của một vùng đất linh
thiêng đặc thù (một nghi lễ tương tự ở
nhiều nơi trên thế giới) đựơc miêu tả. Bằng phép ẩn dụ phổ biến quen thuộc như
sự sinh sản của hai nữ thần tối cao. Mặt khác, phần hai thì lời nhạc kịch trở
nên thuần tuý và đơn giản. Thủ tục chức năng nguyên thủy về “hôn lễ quan trọng”
đã trở thành một kịch tính trong kịch nghệ chính thức, mô tả sinh động sự hỏi
cưới của đấng tối cao đối với cô dâu siêu phàm nhất định và sự sinh sản tiếp
theo của chúa với nghi lễ (hoặc lễ hội) được khai mạc thực sự. Hơn nữa, nó đã
suy giảm rồi giống như kịch câm thánh Saint George và các vật tương tự khác vào
trong một trò đùa phổ biến vì đề tài được xem xét không chỉ về “sự huyền bí”
trang nghiêm mà cả về sự chế giễu địa vị xã hội.
c) Trong giai đoạn nghi lễ thì cốt truyện không còn gắn pari
passu với nghi lễ nữa mà lắng đọng đến cấp độ của nghi lễ tổng quát thuần tuý
được tạo ra để trình bày ý nghĩa toàn diện trong nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên,
dù mối quan hệ song song đạt độ chính xác giữa chuỗi sự việc xảy ra tình cờ và
các thành tố nghi lễ hiện nay đã thất lạc. Cốt truyện chỉ còn giữ lại sự kết
hợp với việc thờ cúng được bao gồm trong “trật tự dịch vụ” trang trọng. Trong mô hình này thì
đương nhiên nó không còn là “kinh lời nói” cần thiết được ưu tiên bảo tồn nữa
mà thường thì không phải việc sáng tạo của các tác giả tạm thời cũng không phải
là sự viết tiếp của các tác giả, và nó thường được tô điểm bằng mọi loại hình
thực hiện như là phần phụ kế tiếp.
Một ví dụ điển hình về giai đoạn
này là Truyện Hittite về Qủy Sa tăng II – Illuyankas mà ta đã đề cập tới.
Nguyên văn nói rõ rằng cốt truyện được kể lại tại lễ hội Puruli và có nội dung
được kết nối mà chúng ta được chiêm nghiệm với vở kịch câm giết rồng của người
Châu Aâu. Nhưng vẫn chẳng có gì chứng minh được rằng truyện kể được tách ra. Nó
đã trở thành truyện kể thuần tuý, dù rằng vào thời điểm đó sự kiện thực sự
chứng mình được rằng cấu hình của nó một phần của nghi thức tế lễ lộ ra nguồn
gốc cuối cùng về một nguyên mẫu chức năng đầu tiên của nó.
Theo cùng thứ tự là “Thiên sử thi
Tạo hóa” của người Babylon
(Enuma elish). Dù rằng như ta đã chứng kiến thì mảnh đất nuôi dưỡng thơ ca đối
với chương trình lễ hội Năm mới (Akitu) và không có bằng chứng nào là nó được
kể lại pari passu bằng việc thực hiện
chúng. Ngược lại, ta biết rằng nó được linh mục phát âm(urigallu) theo lối kể
truyện trang trọng trước tượng chúa. Do đó, nó được sắp xếp đơn độc như một bài
thánh ca nghi lễ.
Đối với giai đoạn này tùy thuộc
quá nhiều vào thánh ca thiên chúa trung cổ kết hợp với nghi lễ vào các ngày
thánh. Thông thường, thì đây là truyện kể thi ca đơn giản biểu thị một “giới
hạn thay thế” được Cơ đốc hoá trừu tượng về hành vi nghi lễ được cử hành y
nguyên làm theo nguyên bản “ngoại đạo” trong các lễ hội này. Lấy ví dụ, tác phẩm nổi tiếng Adam của thần chiến thắng
Vicotr Laus erumpat được viết cho ngày lễ thánh Mi-sen. Theo chương mười hai
của Kinh Khải huyền thì điều này có mối liên quan về cách mà thiên thần đánh
bại quỷ Satăng và trục xuất hắn khỏi thiên đàng. Xa xưa, khi chúng ta nói từ
đường vĩ tuyến đến cái còn lại trong việc sử dụng phổ biến thì sự thất bại của
kẻ độc ác và của yêu ma độc hại nói chung được hoàn thành thực sự trong nghi lễ
bắt chước vào thời điểm quyết định của năm ngược thể thơ đặc biệt này không
được bất kỳ loại hình biểu diễn nào kèm theo: nó đã và được lưu lại dưới dạng
một truyện kể nghi lễ thuần tuý.
d) Trong giai đoạn nghi lễ
thì cốt truyện Huyền thoại đã trở thành truyện kể thuần tuý đáp ứng cùng nhau
từ bất cứ việc theo dõi kỳ nghi lễ nào. Thánh ca Hôme và thêm nhiều thánh ca Do
thái dưới hình thức kể truyện (vd: Pss: 74:10-17, 89:2-19, 93) có sức minh
hoạ tốt về bước nhảy cuối cùng này. Trong cả hai, nội dung cũ được bảo tồn rất
phong phú nhưng cbỉ có một điểm thoả thuận đánh dấu sự phát sinh toàn mỹ và
không có một bằng chứng cụ thể nào chứng minh rằng chúng được tạo ra để sử dụng
cho nghi lễ đặc thù. Quả thật, chính đặc trưng của giai đoạn này mà các tài liệu truyền thống thường được sử
dụng chỉ là nền tảng cho việc giải quyết thơ ca về các sự kiện lịch sử (hay sự
kiện lịch sử đáng tin cậy).
Đôi khi, để cho chắc chắn thật là
khó thậm chí không thể quyết định là một cách truyện Huyền thoại đặc thù tuỳ
thuộc giai đoạn nghi thức tế lễ hay giai đoạn mang tính văn chương.
Thơ Ugaritc của Baal là một
trường hợp trọng điểm. Chuỗi các sự việc xảy ra trong thơ này có quan hệ gần
gũi với chương trình điển hình của nghi lễ thời vụ. Không hề có một cuộc chiến
nào giữa chúa và địch thủ của người, sự lên ngôi của kẻ thắng, sự xây dựng một
hoàng cung mới cho ông ta, sự bổ nhiệm tạm thời và sự truất phế sau đó của
người được ủy quyền, sự chiêu đãi của thánh và vân vân. Hơn nữa, có một chút
vấn đề so sánh hoặc sự dàn dựng văn chương đơn thuần đang được đề cập, vd: rất
ít đề tài văn chương phụ trợ được dẫn nhập. Do vậy, khả năng có thể xảy ra là
bài thơ này được sử dụng thực sự như một
truyện kể dạng nghi thức tế lễ thậm chí khi nó vươn đến giai đoạn còn sớm hơn
về sự hình dung thuộc kịch. Tuy nhiên, không có nền tảng kết luận nào về vấn đề
này và do vậy khả năng được phép mà chúng ta đang cư xử đơn thuần chỉ với việc
kể lại mang tính văn chương.
Khó khăn này buộc bản thân nó
phải theo cùng với thuyết tương đồng hiện tại mà một số bài thánh ca trong kinh
thánh, giả dụ như những bài ca khởi đầu “Chúa được làm vua” là các điếu văn
cúng tế được sử dụng trong nghi lễ lên ngôi của chúa vào năm mới. Sự phản đối
thuyết này là kinh thánh bằng câu hỏi có thể thuộc vào giai đoạn mang tính văn
chương về hình thái Huyền thoại – đó là, chúng có lẽ là vật còn lại của văn
chương đơn thuần về cấu trúc nghi lễ mà
nhiều thánh ca Do thái cổ mà sự lên ngôi của chúa hay cai trị thiên đường được
coi là đặc trưng của tế lễ Năm mới.
Việc diễn đạt Huyền thoại trong
Truyện
28. Trong giai đoạn sơ khai về truyện kể Huyền thoại thì mối quan hệ tương đồng bản chất giữa thực tế
và ý tưởng mang lại một cách dứt khoát bởi sự tương ứng bất biến về từ đến hành
động trong việc hành lễ thờ cúng. Nhưng ngay cả ở những giai đoạn sau thì nó
vẫn không hoàn toàn đưa đến kết luận.
Ở vị trí đầu tiên thì những kinh
thánh mà bao gồm những câu truyện như vậy có liên quan đến hầu hết các tôn giáo
khi sở hữu không chỉ khu vực rộng lớn và có thật trong lịch sử mà còn cả ý nghĩa không thực nghiệm tượng
trưng. Ví dụ, Yaska chỉ ra rằng trong
truyền thống tôn giáo của Aán độ thì kinh Vệ đã được tin tưởng có ý nghĩa gấp
ba lần: một lần có quan hệ với việc cưû hành nghi lễ (adhiyajna), một lần có
quan hệ với giới thần thánh (adhidaiva) và một lần có quan hệ với kiếp linh hồn
(adhiyatna), và cảnh này cũng được diễn tả trong kinh Upanishads. Tương tự, nó
luôn là nguyên tắc bền vững của cả khoa chú giải kinh thánh Cơ đốc và Do thái
rằng truyện kể có thật trong lịch sử của Kinh thánh được thực hiện không ngừng
cũng như ý nghĩa đúng thời gian, ví dụ, rằng tất cả các thế hệ Israel và không
chỉ đơn thuần là những kẻ chạy trốn từ Ai Cập được hiện diện bằng linh hồn trên
đỉnh Núi Siani và được kết luận có giao kèo với Chúa.
Vị trí thứ hai – và điều này còn
hơn cả mong đợi – thậm chí trong giai đoạn nguỵ biện của nó, cách truyện Huyền
thoại bao hàm hoạt động về một cấp độ
một điều gì đó khác với cấp độ về thực tế và theo lối kinh nghiệm. Những anh
hùng ùvà các nhân vật khác dẫn đầu những đặc tính có thể vi phạm quy luật thông
thường của tự nhiên, chúng có thể làm thay đổi hình dạng và giới tính, hoặc
vượt qua khoảng cách to lớn ở một bước nhảy. Việc lý giải luân chuyển về yếu tố
này là gọi về tới giai đoạn lôgic trước đó về tâm lý – là hình thái sơ khai của
ý nghĩ được các giới hạn logic khai thông và một vài học giả đã theo đuổi sự
giống nhau đối với giai đoạn này bằng các giấc mộng. Tuy nhiên, thuyết ngụy
biện về đề tài này là quá rõ ràng đới với thực tế mà yếu tố quái dị về Huyền
thoại và truyện kể thường được dẫn nhập cho mục đích diễn tả việc nhấn mạnh
thêm điều kỳ dị đó. Không phải ai ai cũng thay đổi hình dạng, cũng có đôi dày
ma thuật, phô bày sức mạnh siêu nhân hoặc là đáp ứng được những thử thách đồ sộ
cả. Quả thực, nếu có điều đó thì sẽ không có truyện. Đây là những đặc tính về
tính điển hình và chúng được thiên phú chỉ vì chúng phải khác với hoạt động của
nam nữ bình thường. Nói cách khác, chúng sở hữu những đặc tính này vì chính xác
chúng là phi thường và điều khiến chúng phải như vậy là vì chúng có khả năng từ
chối những quy luật lôgic thông thường và các yêu cầu về ý nghĩ xác thực thông
thường. Và sự tương đồng về điều mơ tưởng cũng không theo bất kỳ phương cách
nào về âm thanh như nó vốn dĩ có.
29. Nhưng nói chúng thì nó không chỉ là kiểu dáng mà mối quan hệ tương đồng vốn có của thực tế
và ý tưởng sản sinh ra truyện Huyền thoại. Đôi lúc, nó cũng được truyền đạt
theo một cách cụ thể do việc sử dụng từ ngữ nhạy cảm (qua tính đồng âm). Các ví dụ diển hình về vấn đế này do Kịch
Lên ngôi của người Hy lạp tạo ra quan hệ đến những sự việc mà ta đã đề cập. Ví
dụ như ở một giai đoạn, của con dê và con lừa dẫm nát ngũ cốc trên sàn đập và
được gió thổi đi. Hoạt động về chức năng thuần tuý này ngay lập tức biến thành Huyền thoại như tiếng
chân của Osiris bằng người hầu trong bộ và sự lên giọng của con trai của người
chủ là Horus sau đó. Nhưng ý tưởng Huyền thoại lại theo lối chơi chữ: khi mà
Horus xen vào ông ta la lên “Nhìn kìa, đừng đánh cha ông nữa, ta ra lệnh!” và
“cha ông” và giá trị ở đây là ngôn từ của người Ai cập “Ngũ cốc” và “bệ hạ” là
từ có cùng lối phát âm. Tương tự, khi mà, trong hành lễ thờ cúng vua Ai cập cổ
được trao áo giáp hoàng gia , việc này được cho là miêu tả Horus ôm lấy thi thể
của Osiris thì ngôn từ Ai cập đối với “áo giáp” và “cái ôm” nghe chừng giống
nhau. Quả thực, trong 138 dòng của bài văn hiện còn thì có sự gần gũi nhau về
hai mươi hình thức chơi chữ như vậy – một số chúng đồng nghĩa trực tiếp, một số
khác; nhiều hơn hay ít hơn sự chơi chữ biến chất.
Phương cách tương tự như thế mô
tả Thơ về Chúa nhân từ Ugartic. Ví dụ, một yếu tố của nó là theo nhịp bài hát
hay bài hò được ca bằng nhóm người tham dự trong trang phục bằng dây.
Cái can hệ đến việc sử dụng lối
chơi chữ này không phải là lời nói thuần tuý hay lời nói dí dỏm hoa mỹ nào cả.
Phương cách dựa vào ý tưởng sơ khai mà tên là một phần đồng nhất tổng hợp. Theo
đó, nếu một cái tên có nghĩa gấp đôi thì điều này đưa đến ipso facto mà điều đó
được tạo có hai mặt. Trongtrường hợp hiện tại, hai mặt đó bao hàm mối quan hệ
tương đồng về bản chất giữa thực tế và ý tưởng.
Mặt khác, mối quan hệ tương đồng
về bản chất này chịu đựng loại hình suy giảm khi nó được phát âm trong truyện như khi nó được đọc trong các phương
tiện thông tin đại chúng khác mà chúng ta đã khảo sát. Nguyên tắc biểu hiện của
vấn đề này là sự hạn chế việc vượt thời gian đến cấp độ cổ xưa thuần tuý. Điều
thực sự xảy ra gần đây trên một phương diện khác được miêu tả khi một điều gì
đó diễn ra “ngay vào một thời điểm” ở cùng phương diện đó. Do vậy lùi về quá
khứ xa xưa thì truyện Huyền thoại chấm dứt sự việc cùng xảy ra về ý tưởng của
tình huống hiện tại và thừa nhận đặc tính nguyên bản của nó hay kiểu mẫu ban
đầu. Vì thế, chúa sẽ nói không quan niệm khi giết chết con rồng “ý tưởng” ở
thời khắc khi vị vua giết mình “thực sự”, ông ta đã giết mình “vì tuổi già” và
hành động nghi lễ chỉ đơn giản là sự sao chép bắt chước về sự kiện đó.
Tuy nhiên, về cơ bản thì đây chỉ
là một sự nhượng bộ đối với tình trạng khẩn cấp của cách phát âm theo lối kinh
nghiệm và nó không lừa dối chúng ta được – khi nó đánh lừa được vài học giả
hiện đại về chủ đề (vd: Malinowski và Eliade) – giả sử rằng chức năng nguyên
thủy của Huyền thoại là để hợp thức hoá lối sử dụng truyền thống bằng việc miêu
tả điều đó như việc lặp lại của hành vi hiệu qủa ban đầu. Để duy trì điều này
thì một lần nữa bỏ qua đdiểm thiết yếu mà Huyền thoại và Nghi lễ hoạt động song
song và không đứng trong mối quan hệ dòng dõi trực hệ hay thuộc phả hệ cùng
nhau.
“Sự thật” về Huyền thoại
30. Huyền thoại có thể được miêu tả “đúng” bằng hướng nào?
Theo các nhà điều tra đứng tuổi
thì câu hỏi này chỉ vừa mới đặt ra một vấn đề. Theo họ, sự thật trong bối cảnh
này chỉ đơn thuần là sự đối nghịch của điều hư cấu; một chuyện hoang đường chỉ
đúng khi điều có mối can hệ về lịch sử và xác thực. Tuy nhiên, nếu chúng ta
định nghĩa Huyền thoại theo chức năng thì rõ ràng là câu trả lời này sẽ không
còn gì định nghĩa nữa, giả dụ khi thờ cúng được coi trọng hơn hiện tượng văn
chương đơn thuần.
Trong một nghiên cứu gần đây
Pettazzoni đã dám đưa ra một công thức thay thế:
Oâng cho biết Huyền thoại là
truyện có thật vì nó là truyện thần thánh không chỉ bởi tính hấp dẫn về nội
dung của nó mà còn bởi tính hấp dẫn về sức cúng tế bền vững của nó và đi vào
hoạt động. Việc kể lại Huyền thoại nguyên thủy được kết hợp trong việc thờ cúng
vì tự thân nó kết luận đến đoạn kết mà việc thờ cúng được thực hiện, cụ thể
những điều này duy trì và tăng dần cuộc sống… sẽ có can hệ đến truyện kể tạo ra
thế giới giúp duy trì thế giới, sẽ thuật lại chi tiết nguồn gốc nhân loại phụng
sự cho việc sống còn của lồi người, vd: sẽ làm cho cộng đồng và nhóm người
trong xã hội tồn tại mãi mãi.
Quan sát quan niệm này thì Huyền
thoại cần thiết phải đúng chứ chúng không thể sai được. Sự thật của chúng không
phải là motä loại hình lôgic cũng không đúng lịch sử. Mà trên hết nó thuộc loại
hình tín ngưỡng và cụ thể hơn nữa là loại hình tà thuật. Tính hiệu qủa của
Huyền thoại với mục đích thờ cúng, vd: vì sự bảo tồn thế giới và sự sống trong
nó, điều tin tưởng sai lầm về tà thuật trên thế gian, về sức mạnh liên tưởng
của nó, về mythos hay fabula, không phải về ý nghĩa “diễn văn hư cấu” mà về
quyền lực và sừc mạnh bí ẩn kết lại – khi từ nguyên học đưa đến fa-tum.
Tuy nhiên, việc quan sát này có
sự phản đối rõ ràng, nó hiểu lầm Huyền thoại với tính hiệu quả. Điều nó giải
thích một cách rõ ràng và không thể chối cãi được là giá trị của việc tường
thuật hay cử hành về Huyền thoại nhưng “sự thật” của Huyền thoại là một điều gì
đó ắt hẳn vốn có hơn là Ý tưởng Huyền thoại cơ bản và ắt hẳn nó không đưa ra cơ
chế nào về các loại hình ăn khớp một cách thuần tuý cả. Nói cách khác, thì nó là một khái niệm
trừu tượng chủ yếu và có sẵn mà ta sẽ xem xét trong tình trạng không thể bàn
cãi về cơ sở lập luận cơ bản mà thực tế và đúng chu kỳ hoatï động song song
bằng ý tưởng và không theo thực nghiệm. Đây là luận cứ không thể rút gọn – sự
thật hiển nhiên mà toàn bộ cấu trúc được dựng lên.
31. Trong việc hỗ trợ về luận cương của mình, Pettazzoni chỉ ra
rằng trong số các bộ tộc Người Bắc Aán Mỹ (vd: Bộ tộc Pawnee, Wichita, Oglla
Dakota và Cheokees), cũng như trong số bộ tộc Karadjeris thuộc Tây Bắc Úc và bộ
tộc Hereros thuộc Tây Nam Phi, một sự khác biệt là trong thực tế có sức thu hút
giữa những truyện kể “thật” và “không thật”, giữa nguồn gốc vũ trụ và lịch sử
nguyên thủy đang được quy cho phạm trù cũ và truyện kể có “sức tin tưởng” thuần
tuý mới. Việc theo dõi này cực kỳ có ý nghĩa với tư thế của chính chúng ta vì
nó thực sự được thừa nhận bằng trí tuệ nguyên thủy về hai loại truyện đó mà ta
đã ngụ ý, nghĩa là Huyền thoại được sử dụng trong thờ cúng, và truyện kể được
nói trong giải trí. Đồng thời, thật khó nhận thấy cái chịu đựng điều này có
“thật” của Huyền thoại per se vì nó dường như chỉ có quan hệ với tín ngưỡng mà
xảy ra được đính kèm theo những truyện
kể đặc thù. Và thậm chí rồi sau đó những dẫn chứng quan trọng nằm trong trật
tự.
Quả thực, cần phải xem xét những
khái niệm đa dạng về thuật ngữ “thật” trong lối nói hiện đại. Một loại thuốc có
bằng sáng chế được phép yêu cầu cung cấp việc cứu chữa thật. Ơû đây, thật có
nghỉa là có tính hiệu quả đơn giản và nhất định. Một tục lệ được phép yêu cầu
tính truyền thống thật. Ơû đây, từ có nghĩa đơn giản xác thực. Một báo cáo có
thể được cho là đúng. Ơû đây, không có nghĩa nào khác ngoài việc nó có quan hệ
với sự thật. Việc truyền tải tư liệu được mô tả đúng bằng bản phô tô thật được
công nhận là chính xác.
Những điều phản đối được trả lời
32. Nếu việc tiếp cận cơ bản đến Huyền thoại nghe có vẻ là nhiệm
vụ của nhà nghiên cứu Huyền thoại học thì khi ông ta đối đầu với những câu
truyện sẽ tìm các yếu tố ảnh hưởng hay can hệ với các tình huống nghi lễ và
theo tiêu chuẩn đó để xác định xem điều lừa gatï trước ông ta là Huyền thoại
(tuy nhiên bằng cách đơn giản hoá thành lề thói) hay thuần tuý là một truyện kể. Tuynhiên việc đeo đuổi các
nguyên tắc cơ bản này phải được hiểu một cách rõ ràng.
Trước hết, sự tương ứng không chỉ
cần đúng và chính xác giữa từ và nghi thức mà đơn giản giữa khái niệm của người
xưa và cái mà được truyền đạt sau này. Bởi điều mà chúng ta thật sự quan tâm
không chỉ về sự tái sinh về điều này với điều khác mà hơn nữa về mối quan hệ
tương đồng về lối diễn đạt qua hai phương tiện truyền thông cùng lúc.
Kế tiếp là cần phải hiểu chắc
chắn rằng những việc liên quan không theo nguồn gốc cụ thể về bố cục đặc thù mà
theo nguồn gốc giống loài về cấu hình có tính văn chương như vậy. Để nói rằng
Huyền thoại per se là bản đối chiếu của Nghi lễ per se không ngụ ý là từng
truyện kể Huyền thoại là (hay đã từng là) lời nhạc kịch nghi lễ của việc hay
hàng loạt nghi lễ thờ cúng. Ví dụ, theo thứ tự để mô tả Thơ Ugaritic của Baal
là một tác phẩm Huyền thoại hơn là một chuyện kể đơn thuần thì không cần thiết
phải công nhận hoặc chứng minh rằng nó thực sự được kể lại như việc cùng xảy ra
về kịch câm thánh. Ơû đây ta dễ tìm được nội dung và cấu trúc của nó trong cùng
mẫu hình như tồn tại ở chương trình hành lễ thờ cúng.
33. Ngừơi ta bị phản đối rằng mối quan hệ tương đồng được thừa
nhận về Huyền thoại và nghi lễ theo mùa ở vùng Cận Đông còn lưu lại cấu trúc
ban đầu về “mẫu hình” thờ cúng tổng quát mà sự thực là việc pha tạp tập trung
thuần tuý. Qủa thực Frankfort đã đi quá xa để chống lại tất cả
mọi tranh cãi về nền tảng mà nó đòi hỏi tính đồng nhất cơ bản về các nền văn
hóa mà tất cả là hư cấu và làm mờ đi những khác nhau về sự thiết yếu,ø quan
trọng. Do vậy thật cần thiết để chỉ ra rằng khi tác giả đương thời sử dụng thuật
ngữ “nghi lễ hay mẫu hình (theo mùa) thì ông ta phải sử dụng một cách dứt khoát
nhất , không có nghĩa là những điều đã
mang lại nghĩa trong việc nắm giữ của trường Uppsala hay những học giả như I.
Engnell hay S. H. Hooke chẳng hạn. Để hoàn toàn rõ ràng, ông ta không tuân theo
bất kỳ tính đồng nhất nào về các thủ tục thờ cúng như vậy hoặc mối quan hệ lịch
sử giữa nghi lễ mùa vụ của người này dành co người khác như Frankfort vừa chất vấn. Việc so sánh hoàn
toàn theo một trật tự khác nhau: thuộc tâm lý chưù không phải lịch sử. Khi mà
tác giả đương thời bàn về “mẫu hình thời vụ” ý ông muốn nói về phạm vi bao la
của sự mất thể diện, sự trong sạch, sự tiếp sức và sự vui mừng như mô tả thực
về nghi thức mùa vụ hầu hết trên thế gian này và bằng chứng về chúng có thể bị
bất cứ ai những người gây phiền toái cho việc thu tích dữ liệu chối cãi..
Thủ tục đó có thể được minh hoạ –
và được thanh minh – từ sự tương đồng về ngôn ngữ. Cả ngôn ngữ thuộc hệ thống
ngôn ngữ Xêmít và Cổ điển ví dụ đề cập đến nguồn của một con sông như “đdiểm
đầu” của nó, nhưng khi một nhà ngữ nghĩa học ám chỉ đến các hình thức song song
để minh hoạ một kiểu tư tưởng, không ai mơ tưởng đến việc công nhận rằng ông ta
đang cố mặc nhiên công nhận mối quan hệ ngữ văn giữa Hebrew ro’sh và La tinh caput!
Với cách biểu hiện tương tự khi mà nhà nhân loại học hay một học viên khoa
Huyền thoại học cùng so sánh về tập quán
thì ông ta không công nhận diểm nối giữa chúng, nhưng một cách đơn thuần thì
tính đồng nhất về ý niệm và từ quan điểm này là bằng chứng đa dạng hơn, hiệu
quả hơn là minh hoạ của ông ta.
Việc nghiên cứu về bản chất và
nguồn gốc của Huyền thoại sẽ không bao giờ chấm dứt nhưng nếu sự tiếp cận được
ngụ ý bằng giấy mực nghe có vẻ như chúng ta dành được sự nhận thức tốt hơn
trong sự tích hợp và ý nghĩa của chúng. Và dường như là chúng ta không còn theo
vết trượt khi ngụ ý rằng ký ức nào thuộc về quá khứ, hy vọng đến tương lai, đó là Huyền thoại đối với hiện
tại.
N.T.K.N dịch
Theo Myth and Story (THEODOR H.GASTER)