Về tình quê và chất Bolero trong thơ Nguyễn Bính (Phần I)

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Bính ( 1918 – 2018 )

VỀ TÌNH QUÊ VÀ CHẤT BOLERO TRONG THƠ  NGUYỄN BÍNH (PHẦN I)

PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

Kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Nguyễn Bính cũng là dịp nghĩ  thêm về sáng tác của ông và những  gì viết về ông. Có một câu hỏi mà mỗi lần đọc lại thơ ông tôi cứ băn khoăn mãi là không biết nên gọi ông là nhà thơ như thế nào cho đúng. Hầu hết những người bàn về Nguyễn Bính đều gắn thơ ông với chữ “ quê”.

Đầu tiên có lẽ là Hoài Thanh. Trong  “ Thi nhân  Việt Nam” Hoài Thanh nhiều lần nhắc đến Nguyễn Bính, có khi bình trực tiếp, dành hẳn cả một mục 9 trang, có khi trong lúc so sánh với các nhà thơ khác hay luận về Thơ Mới nói chung, nhưng hầu như chổ nào cũng nói đến chữ “ quê”. Trong phần dành riêng cho Nguyễn Bính, ông cho rằng “ Nguyễn Bính  vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm” (1). Còn khi kể ra các phong cách khác nhau trong phong trào Thơ Mới, ông nói bên cạnh các hồn thơ của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,huy Thông, Nguyễn Nhược  Pháp, Huy Cận, có hồn thơ quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ di như Chế Lan Viên…và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”( Sđd., tr.25). Đặc biệt  khi so sánh sáng tác của những nhà thơ lấy cảm hứng trong đồng quê xứ Bắc, Hoài Thanh viết :” Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ không nhà quê một tí nào. Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính…”( sđd., tr.156).

Cái “ quê mùa” hay “ nhà quê”ở đây có thể hiểu được vì  trong không gian thơ Nguyễn Bính  tràn ngập  những ngày hội làng, những đám cưới thôn quê, những bờ tre, giếng nước, vườn dâu,con đò, những cảnh vật ở nông thôn làng quê Bắc bộ. Quan trọng hơn cái chất nhà quê hay quê mùa này có lẽ đã toát lên , gây nhiều ấn tượng nhất  nhờ điệu thơ lục bát đặc chất dân gian và những câu thơ theo Hoài Thanh “ có tính cách ca dao”, thậm chí có “ những bài giống hệt ca dao”( Sđd., tr. 317). Khó hiểu nhất là hai chữ “ tình quê”.

Nhiều người cho rằng thơ Nguyễn Bính chứa đầy tình yêu quê hương, trước hết là tình yêu làng quê, cảnh vật thôn quê và chính ở đây  Nguyễn Bính thường được  so sánh với nhà thơ Nga nổi tiếng – Sergei Esenin, người tự gọi mình:  Tôi là nhà thơ cuối cùng của làng quê”(  Trần Đăng Khoa dịch). Có người dịch câu thơ này là: “ Tôi là nhà thơ cuối cùng của đồng quê”( Tạ Phương dịch).  Tôi không biết tiếng Nga nên không hiểu câu dịch nào sát hơn, nhưng tôi thích câu dịch của Trần Đăng Khoa hơn và không biết chữ “đồng quê”  với S.Esenin thì sao chứ với  Nguyễn Bính thì có lẽ chưa  đúng  hẳn. Trong một khảo sát thú vị về hình ảnh thôn quê trong thơ Nguyễn Bính,  thống kê của tác giả cho thấy  hình ảnh có tần số xuất hiệ cao nhất là VƯỜN ( 26 lần ), sau đó là LÀNG ( 19 lần ), còn ĐỒNG chì có 2 lần ( trong khi ở Anh Thơ là 11 và Đoàn Vă Cừ là 19 lần! ) (2). Đồng tuy thuộc làng ( “đồng làng”) nhưng không phải làng, còn vườn thì  nằm trong làng nên cũng có thể xem như làng. Làng trở thành hình ảnh  nổi bật nhất trong thơ Nguyễn Bính. Cũng như S.Esenin, Nguyễn Bính chính là thi sĩ của làng quê.

Nhưng  ở đây giữa S.Esenin và Nguyễn Bính cũng có chỗ khác nhau. S.Esenin không chỉ là thi sĩ của làng quê mà còn là ca sĩ của làng quê Nga. Ông không chỉ kể những câu chuyện ở làng quê, tả những cảnh vật làng quê mà còn say đắm ngắm nhìn với tình yêu hồn nhiên, tha thiết:

Ôi, nước Nga thân thiết của tôi ơi,

Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa…

Một màu xanh mát ngắm nhìn thuê thỏa

Một màu xanh tít tắp tận chân mây

 

Như một kẻ hành hương từ xa đến

Tôi ngắm nhìn mãi đồng ruộng của Người

Bên lối rào le te quanh thôn xóm

Những cây phong gầy guộc lá reo vui…   ( Thúy Toàn dich)

Thiên nhiên, làng quê trong thơ S.Esenin không chỉ có hình dáng và màu sắc mà còn ngào ngạt mùi hương. Hương của rừng thông:

Tôi chỉ muốn về làng quê trìu mến

Cả đất trời thơm ngát nhựa rừng thông  ( Nguyễn Viết Thắng dich)

hương của cánh đồng lúa kiều mạch:

Tôi lại đau sau nỗi buồn ấm áp

Bởi gió đưa hương kiều mạch khắp đồng  (Thúy Toàn dich )

 

Nhà thơ không chỉ ngắm nhìn hay chìm đắm trong mùi hương của  cây cỏ mà còn như

muốn ôm chặt lấy tất cả, cái cổng nhà, cây bạch dương…như những gì thân yêu nhất:

Người đẹp quá trắng ngời miền đất phẳng

Lạnh giá đầu mùa sưởi ấm máu tôi

Thật chỉ muốn ôm ngực trần mịn trắng

Của những cây bạch dương, ghì chặt mà thôi  ( Thúy Toàn dịch)

S.Esenin yêu quê hương trong tất cả những gì rất cụ thể,  gần gũi, bình dị. Ông viết về những con chó, con bò,  con mèo, những cây cầu gỗ, cây dương tơ non và tất cả những thứ đó như quyện vào câu thơ ông:

Câu thơ tôi buồn chất súc vật

Như nhuộm bằng quả cây sồi ( Tế Hanh dịch )

Đặc biệt là về mẹ của mình, một hình ảnh mà chúng ta ít bắt gặp trong thơ Nguyễn Bính :

Có phải mẹ ơi, như người ta bảo

Mẹ dấu buồn lo, khổ mãi vì con

Có phải mẹ vẫn ra đường mỗi tối

Choàng trên vai chiếc áo cũ bông sờn  ( Bằng Việt dịch )

Ông ý thức rất rõ với ông tình yêu quê hương mới là điều quan trọng nhất:

Thơ – đâu phải là việc quá khó làm

Nhưng mạnh hơn, là tình với quê hương   ( Một bài thơ – Xuân Diệu dịch)

Và ông nguyện làm ca sĩ  hát về vẻ đẹp bình dị của làng quê:

Người ta bảo, con một ngày sắp đến

Thành nhà thơ nổi tiếng của nước Nga

Con sẽ hát ngợi ca mẹ và khách

Cái bếp nhà ta, chú gà sống, nếp nhà

Và dòng sữa con bò vàng của mẹ

Sẽ chảy vào những khúc hát con ca ( Thúy Toàn dịch)

Nguyễn Bính và S.Esenin có nhiều điểm giống nhau : cả hai cùng sinh ra ở nông thôn và cùng xa quê khi còn ít tuổi  ( S.Esenin rời quê lúc 14 tuổi, Nguyễn Bính lúc 13 tuổi ), thơ ca cùng mang nặng nỗi buồn : “ Đặc trưng cho giọng thơ Esenin là một nỗi buồn sâu lắng” ( I.Erenbua )( 3 ), “ Thơ Bính buồn, thật buồn. Mỗi lời như một dòng lệ, ngay cả khi Bính không nói về mình” ( Tạ Tỵ) (4). Cái giống nhau lớn nhất  giữa hai nhà thơ là sự gắn bó với làng quê, với nơi chôn rau cắt rốn. Nhưng  nếu S.Esenin là ca sĩ của làng quê thì Nguyễ Bính là thi si của “ tình quê”.

Hoài Thanh đã rất có lý khi nhận xét rằng Nguyễn Bính khác Anh Thơ và Bàng Bá Lân ở chỗ Nguyễn Binh  “ chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê” và ông cũng tỏ ra rất tinh khi dùng chữ “ưa sống” chứ không phải là mang nặng hay tha thiết , bởi vì chữ mang nặng hay tha thiết tình quê dễ làm người ta hiểu lầm “tình quê” ở đây là tình yêu tha thiết quê hương. Chúng ta có thể hiểu ý Hoài Thanh rõ hơn khi  đọc nhận xét của ông về thơ Bàng Bá Lân. Ông viết : “ Bàng Bá Lân cũng ít sống trong tình quê” nhưng hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ  và “hiểu hơn vì mến hơn”. Dẫn một câu thơ Bàng Bá Lân tả buổi sáng ở làng quê, Hoài Thanh cho rằng người viết tỏ ra “ mến cảnh ấy lắm” ( Sđd., tr. 156-157). Yêu mến  cảnh quê nhưng lại không phải là sống trong tình quê, vậy rõ ràng “tình quê” ở đây không phải là tình yêu quê hương mà là một thứ tình cảm mang đậm chất quê, tình cảm của những người sống ở làng quê hay của người đã xa quê nhưng vẫn cảm xúc, vẫn yêu thương theo cái điệu của người ở quê, vẫn có cái tình với quê. Mến cảnh  cũng là tình yêu làng quê, nhưng là tình yêu của người  đứng xa nhìn.Sống trong tình quê là cái tình của người trong cuộc, dù đi xa vẫn mang nặng hồn quê. “Tinh quê” trong thơ Nguyễn Bính vừa là đời sống tình cảm của những người dân quê, nhưng cũng là cái tình, là tình yêu, nỗi lòng mang đậm nét quê của chính nhà thơ.

Quả thật thơ Nguyễn Bính ít tả cảnh. Hoài Thanh không liệt Nguyễn Bính vào số các nhà thơ đồng quê có “lối thơ tả chân”( Sđd., tr. 27). Nguyễn Bính cũng có những bài thơ, đoạn thơ tả cảnh làng quê(  Xuân về, Trời trở gió, Thơ Xuân, Cuối tháng Ba, Qua nhà, Tơ trắng ), nhưng nói chung không nhiều và thiên về kể hơn tả. Thơ ông chủ yếu là tả tinh, sống trong tinh, sống với tình nhiều hơn tả cảnh, sống  với cảnh.Cách tả tình của ông cũng rất giống ca dao và thơ cổ, mượn cảnh nói tinh, nói cảnh để gợi tình ( Trăng thanh nguyệt rạng mái đình / Chén son chưa cạn sao tình đã quên – ca dao ) :

Hội làng mở giữa mùa thu

Giời cao gió cả giăng như ban ngày

Hôi làng còn một đêm nay

Gặp em còn một lần này nữa thôi ( Đêm cuối cùng )

Tình quê trong thơ Nguyễn Bính rất đa dạng. Có cái tình của người xa quê nhớ quê:

Quê tôi có gió bốn mùa

Có giăng giữa tháng, có chùa quanh năm…( Quê tôi )

Có cái tình của người phụ nữ thôn quê trồng dâu nuôi tằm, chiu thương chịu khó, chắt chiu từng  cắc từng đồng, chỉ mong có ngày:

Chồng tôi cưỡi ngựa vinh qui

Hai bên có lính hầu đi dẹp đường…( Thời trước )

Nhưng nhiều nhất vẫn là cái tình của những người con gái con trai làng quê, thương nhau, chỉ “cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn” hoặc xa nữa thì cũng chỉ là người ở thôn Đông, người ở thôn Đoài, nhưng  vẫn  cảm thấy như muôn vàn  xa cách, để rồi buồn rồi trách rồi nhớ rồi thương, tràn ngập cả hàng trăm dòng thơ:

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…( Tương tư )

Tình quê, tình yêu kiểu làng quê ấy không chỉ là tình yêu  của đôi nam nữ ở thôn quê mà cũng chính là những  mối tình của Nguyễn Bính. Nhà thơ mượn những mối tình quê để nói cái tình của mình. Dù đã xa quê từ thuở bé, chưa chắc đã có một mối tình nào đến mức để thề thốt cùng nhau, nhưng cái ẩn ức về những mối tình quê theo kiểu: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chín nhớ mười mong một người “ vẫn ám ảnh, ăn sâu trong trái tim nhà thơ. Thành ra dù đã nhiều năm “ dan díu với kinh thành” và  Đem thân đi với giang hồ”,  Nguyễn Bính vẫn bộc lộ tình yêu của mình theo lối tình quê, theo lối những đôi nam nữ làng quê yêu nhau. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính mang một cái mã văn hóa làng quê. Mã văn hóa ấy không chỉ thể hiện trong cách sử dụng những câu lục bát, trong  những bài giống hệt ca dao” ( Hoài Thanh, Sđd., tr.317) với cách nói của  ca dao (  Ai làm cả gió đắt cau” / “ Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này” / “ Nhà em có bốn quả đồi, Có ba con suối, cách đôi cánh rừng”/ “ Mịt mù tăm cá bóng chim, Chim bay dặm thẳm, cá tìm sóng khơi”…) hay  trong sự xuất hiện dày đặc của các biểu tượng về làng quê:  thôn Đoài, thôn Đông, vườn dâu, ao cá, con đò, bến sông, cây cau, giàn giầu, mái đình, hoa bưởi, hoa chanh v.v. mà còn thể hiện ngay trong cái điệu tình cảm của người đang yêu, cái cách mà người con trai tỏ lòng với người con gái, cái cách mà người con gái gửi gắm tình yêu của mình:

Nhà em có một giàn giầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ  giầu không thôn nào   ( Tương tư )

Cái cách biểu lộ tình yêu ấy, cái điệu tình cảm mang đậm chất quê ấy không phải là sự lựa chọn của nhà thơ, càng không phải là một thủ pháp nghệ thuật. Nó là cái điệu tình cảm của chính tác giả. Ở đâycó lẽ không phải  “ Nguyễn Bính đã miêu tả được văn hóa của làng quê” (5) mà là văn hóa làng quê đã hiện ra trong thơ ông do ông đã sống  trong nó, sống với nó, do ông “ ưa  sống trong tình quê  như Hoài Thanh nói .

Từ cái điệu tình cảm này cũng như  từ toàn bộ cái mã văn hóa làng quê  chất đầy trong thơ Nguyễn Bính, toát lên một cái gì đó bao trùm lên thơ ông. Đó là cái gỉ ? Trong lời giới thiệu Tuyển tập thơ Nguyễn Bính, Tô Hoài viết : “ Trước sau và mãi mãi, Nguễn Bính vốn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê”( 6). Có lẽ nói về Nguyễn Bính mà chỉ nói tình quê và chân quê, Tô Hoài cảm thấy không đủ, nên ông mới thêm chữ hồn quê, và đúng là phải thêm chữ hồn quê thì mới nói được hết đặc điểm của thơ Nguyễn Bính. Tình quê nằm trong câu thơ, hồn quê nằm sau câu thơ, ẩn hiện, thấp thoáng trong những mối tình nơi thôn dã, mối tình của người xa xứ nhớ quê, trong những hình ảnh  làng quê đã trở thành biểu tượng trong ca dao. Tình quê và hồn quê chính là nét đặc sắc của thơ Nguyễn Bính.

Nhưng thiết nghĩ nếu chỉ mang tình quê và hồn quê, thơ Nguyễn Bính chưa chắc đã có sức lôi cuốn và phổ biến  rộng rãi, lâu dài như vậy. Trong thơ Nguyễn Bính không chỉ có những bến đò, mà còn có những sân ga, không chỉ có làng quê yên ả với vườn dâu, giàn giầu mà còn có Hà Nội 36 phố phường, không chỉ có Cô lái đò, Cô hái mơ mà còn có Người con gái ở lầu hoa. Nguyễn Bính không phải là anh nhà quê lạc vào phố mà là chàng trai đã nhiều năm “dan díu với kinh thành”,”Đem thân đi với giang hồ”, thậm chí  có khi vì thất tình nên “ phải tìm quên ở tiệm hút, lầu xanh”(7). Chàng trai Nguyễn Bính là một kẻ “giang hồ” mang nặng hồn quê.

Nguyễn Bính không phải chỉ là nhà thơ chân quê mà còn là nhà thơ lãng mạn, mang  khá đầy đủ “ tinh thần thơ mới”. “Nguyễn Bính trước hết vẫn là một nhà Thơ Mới” ( 8 ). Nhưng Thơ Mới là một phong trào, là tên gọi chung, không phải ai cũng có được tinh thần thơ mới”, cái  mà theo Hoài Thanh còn  quan trọng hơn” hình dáng câu thơ hay  luật thơ,vần điệu. Tinh thần thơ mới ấy “ có thể gồm lại trong hai chữ tôi ta”, bộc lộ rõ nhất trong cảm hứng lãng mạn gắn với “ chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của ” ( Hoài Thanh, Sđd., tr.43,44). Thơ Nguyễn Bính quả thực đã chứa đầy “tinh thần thơ mới” theo nghĩa ấy. Trong thơ ông có rất nhiều câu gần với ca dao nói về tình yêu, nhưng nếu trong ca dao  chúng ta chỉ bắt gặp những câu

Ai về ai ở mặc ai

Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh….

Những lời mình nói với ta

Trăm cây cũng gãy, ngàn hoa cũng sầu

thì trong thơ Nguyễn Bính, cũng âm điệu ấy nhưng cách xưng hô đã khác :

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn…( Người hàng xóm )

Nhà em có một giàn giầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng ( Tương tư )

Nàng mà làm dâu nhà tôi

Vườn dâu nó thẹn với đôi tay ngà…( Nhà tôi )

Quan niệm cá nhân và chất lãng mạn trong thơ Nguyễn Bính không chi thể hiện ở cách xưng “ tôi” hay cách dùng chữ, đặt câu, mà cái chính là nó nằm trong bản thân tình cảm của nhà thơ, trong cảm xúc yêu đương, trong  cảm hứng chung của sáng tác. Nổi lên tất cả trong những bài thơ của ông là nỗi buồn và sự cô đơn :

Lạ quá! Làm sao tôi cứ buồn

Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn

Làm sao tôi cứ tương tư mãi…( Vâng )

Buồn thì thơ tình yêu nào cũng buồn. Ca dao về tình yêu  nhiều câu cũng rất buồn:

Ra về sương xuống đầy vai

Ngoảnh nhì trở lại bóng ai tờ mờ

(CÒN TIẾP)

Gởi
Bài được đọc nhiều nhất
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 4
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 7
Chủ nhật

 
 
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31