Vấn đề hiện thực
là một trong những quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Mặc dù trong thế kỉ
của chúng ta mối quan hệ văn học và hiện thực như một vấn đề lý luận không được
đặt ra cấp thiết và rộng rãi như trong thế kỉ XIX- XX, nhưng ở nhiều mức độ
khác nhau, nó vẫn thường hiện diện trong phát biểu của các nhà văn và các nhà
phê bình, nhất là ở Việt Nam. Có thể nói ở nước ta hiện nay, hiện thực vẫn là một
chữ ám ảnh những người sáng tác, những người làm lý luận và đặc biệt là những
người được phân công “ quản lí ” văn nghệ. Cho dù thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa” không còn có vai trò và được nhắc đến nhiều như trước nhưng
phản ánh hiện thực vẫn là tinh thần chung, là phương châm mà giới sáng tác được
cho là phải hướng tới. Thực tế này đòi hỏi cần có những nghiên cứu sâu hơn vấn
đề đặt ra.
Văn học định hướng hiện thực là một xu
hướng lớn, rất phổ biến và đạt được những thành tựu rực rỡ với những tên tuổi
vĩ đại và những tác phẩm bất hủ. Sức mạnh
cơ bản nhất của văn học hiện thực là sự phân tích xã hội, khả năng nhận thức,
trước hết là nhận thức về hiện thực xã hội và hiện thực về con người. Tác phẩm
hiện thực đem lại cho người ta một cái nhìn mới, một cái nhìn khác về những điều
đã thấy hay đã biết, từ đó khám phá thêm những cái mới trong đời sống, trong
con người, giúp người ta không chỉ biết được nhiều hơn mà còn hiểu sâu hơn – hiểu
sâu hơn không chỉ hiện thực bên ngoài mình mà còn cả chính mình, cuộc đời mình,
cái bên trong mình. Mặt khác, bởi vì trong tác phẩm định hướng hiện thực bao giờ
sự tái hiện đời sống cũng kèm theo sự phán xét của tác giả về cái được “phản ánh”, nên ngoài giá trị nhận thức,
tác phẩm hiện thực còn thường được đánh giá căn cứ vào tính chân lí lịch sử của khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm, tức ý
nghĩa lịch sử - toàn dân tộc của sự ca ngợi hay kết án, thương yêu hay căm giận.
Về phương diện này có thể nói chủ nghĩa nhân đạo và sự phê phán xã hội là những
giá trị tư tưởng lớn nhất của văn học hiện thực.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ định hướng
sáng tác nào khác, xu hướng coi “ phản ánh” hiện thực như chức năng cơ bản của
nghệ thuật và từ đó mọi sự xét đoán về tác phẩm đều căn cứ vào quan hệ của nó với
hiện thực bên ngoài, cũng có những đối thủ và thách thức không nhỏ. Tạm để sang
một bên sự phản bác xuất phát từ quan điểm
của Plato cho rằng nghệ thuật “ mimesis”
( mô tả) chỉ tái hiện được những biểu hiện bên ngoài của hiện thực chứ không thể
thâm nhập vào “ hình thái” ( Form ), tức bản chất ( Essence)
của nó, cũng như sự khước từ nó do những khác biệt mang tính chất hệ hình ( paradigm)
của Chủ nghĩa hình thức ( Formalism) hay Lí thuyết biểu hiện ( Expressive
Theory), bản thân văn học “ phản ánh hiện thực” cũng tiềm ẩn những nguy cơ có
thể dẫn đến việc hạ thấp giá trị của tác phẩm. Thực tiễn sáng tác của văn học
hiện thực, đặc biệt là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ điều đó.
Một trong những nhược điểm thường gặp của
văn học đề cao nguyên tắc phản ánh là nhiều khi tập trung quá mức vào ghi chép,
mô tả đời sống, dẫn đến làm giảm sức mạnh tư tưởng và chiều sâu nhận thức của tác phẩm. Người viết dường như coi
trọng việc kể lại một câu chuyện có thật, tả lại một sự kiện vừa diễn ra, mô tả
một cảnh sống nào đó, “ phản ánh” nó hơn là suy tư về nó. Ở đây, nói theo cách
của Aristotle, văn học đã tỏ ra “ không
triết học hơn lịch sử”. Người đọc dường như được hướng vào việc thu nhận kiến
thức, hiểu biết về hiện thực được phản ánh nhiều hơn là thâm nhập vào sự vận động
và mâu thuẫn bên trong của đời sống cũng như những chiêm nghiệm của nhà văn về
nhân sinh, thế sự.
Một biểu hiện khác cũng thường dẫn đến hạ
thấp uy tín của văn học “ phản ánh” là ở chỗ khá nhiều tác phẩm văn học hiện thực
chủ yếu hướng vào tái hiện đời sống hằng ngày, cảnh sinh hoạt, ăn ở hay các sự
kiện xã hội, tức là chủ yếu hướng vào hiện thực “ vật chất”, hiện thực xã hội
bên ngoài. Gía trị tư tưởng của tác phẩm do đó cũng chủ yếu xoay quanh chủ
nghĩa nhân đạo : bày tỏ sự cảm thông, thương xót những cuộc đời nghèo khổ, bất
hạnh bị chà đạp hay tố cáo sự bất công xã hội, áp bức, bóc lột con người. Những
tác phẩm ưu tú của văn học hiện thực đã vượt qua giới hạn này, đi vào hiện thực
bên trong của con người, khám phá “ Biện
chứng của tâm hồn” và từ đó tiến sâu một bước nữa, vượt ra khỏi ranh giới của
chủ nghĩa tâm lí, bước vào thế giới của tư tưởng, vào hiện thực tinh thần. Chính ở đây văn học sẽ trở nên triết học hơn
bao giờ hết. Tác phẩm nghệ thuật lúc ấy không chỉ là cẩm nang về đời sống, một
hành động chính trị, một cảm xúc riêng tư, một tình cảm đạo đức mà còn chứa đựng
những khám phá của nhà văn về bí ẩn của con người, những động cơ chìm sâu trong
tiềm thức, vô thức, những trăn trở về tự do, những tìm tòi về chân, thiện, mỹ.
Nếu không cố gắng đạt đến đó, văn học hiện thực chỉ dừng lại ở dạng phổ biến,
thông thường và trong trường hợp đó, theo Dostotevsky “ chủ nghĩa hiện thực là trí tuệ của đa số, của đám đông, một đám đông
không nhìn thấy xa hơn cái mũi của mình, nhưng còn đầu óc thì tinh ranh và
thông tỏ, hoàn toàn thích hợp với cái trước mắt”. ( Dostoevsky, 31).
Một nguy cơ khác đối với việc “phản
ánh” hiện thực trong văn học, ảnh hưởng đến tính chân thực của sự tái hiện đời
sống và giá trị nhận thức của tác phẩm – đó là sự thể hiện lộ liễu tính khuynh
hướng và tính chất áp đảo của mục tiêu giáo dục, tuyên truyền đối với mục tiêu
nhận thức. Nếu trong trường hợp đầu, tính khuynh hướng lộ liễu chỉ làm tổn hại
đến giá trị nghệ thuật của tác phẩm do tình trạng tác giả đứng ra thuyết lí nặng
nề, thì đối với trường hợp sau, sự lấn át của mục tiêu tuyên truyền không chỉ hạn
chế ý nghĩa nhận thức của tác phẩm mà còn làm thay đổi bản chất của hoạt động
sáng tạo nghệ thuật, biến nghệ thuật thành công cụ hay vũ khí, thành phương tiện
để đạt những mục tiêu ngoài nghệ thuật. Lúc ấy văn học không những bị giới hạn
trong việc lựa chọn đối tượng phản ánh như đã nói ở trên ( chỉ phản ánh cái điển
hình tiên tiến, cái mới, cái tốt, trong quá trình phát triển cách mạng…) mà còn
bị hạn chế trong thái độ, cách nhìn đối với cuộc sống nói chung cũng như những
hiện tượng được mô tả nói riêng. Cảm hứng bi kịch, nỗi buồn, thậm chí cả thái độ
trào phúng, nếu không gắn với mục tiêu phục vụ chính trị đều được coi là không
thích hợp. Kết quả là văn học định hướng hiện thực đã không thực hiện được chức
năng cơ bản của mình : hiện thực đã không được “phản ánh” đầy đủ trong tất cả
chiều sâu và sự đa dạng của nó, nhận thức của người đọc về hiện thực qua các
tác phẩm văn học, do đó, cũng hời hợt, phiến diện, một chiều. Đó là vì ngay từ
đầu nghệ thuật đã không hiện ra trong bản chất của nó.“ Nghệ thuật không đơn giản là công cụ của ý chí chính trị-xã hội; nghệ
thuật có giá trị như tài liệu về xã hội chỉ khi nó thực sự là nghệ thuật chứ
không phải khi nó được sử dụng như một vũ khí” ( Gadamer, 579). Nếu không
thực sự là nghệ thuật, văn học hiện thực dễ biến thành “trí tuệ của đám đông, của đa
số”.
Trong suốt quá trình tồn tại của mình,
nghệ thuật theo định hướng hiện thực luôn được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của giới
phê bình, đặc biệt là phê bình văn học mác-xít. Tiêu chuẩn đánh giá tác phẩm
theo xu hướng này thường tập trung xoay quanh hai điểm chính : một là tính chất
của bản thân hiện thực được phản ánh và hai là nghệ thuật mô tả hiện thực ấy.
Giá trị của tác phẩm phụ thuộc trước hết vào giá trị của hiện thực được lựa chọn
làm đối tượng phản ánh cùng với thái độ đối với nó, sau đó là tài năng của tác
giả trong việc mô tả hiện thực. Tác phẩm không được xem như một công trình sáng
tạo nghệ thuật mà như tấm gương trong suốt, xuyên qua nó có thể nhìn thấy hiện
thực bên ngoài rõ hơn, hấp dẫn hơn. Theo quan điểm phê bình mác – xít, hiện thực
càng đẹp, càng lớn giá trị tác phẩm phải càng cao. Nhiệm vụ của nghệ sĩ, của
nhà văn là phải tạo ra được những tác phẩm lớn ngang tầm thời đại và muốn thế
người cầm bút phải sống với hiện thực vĩ đại của cách mạng, phản ánh chân thật
và hùng hồn hiện thực ấy. Yêu cầu thường được đặt ra đối với người sáng tác là
tại sao hiện thực chúng ta đang sống thì to lớn mà văn hoc nghệ thuật lại không
có những tác phẩm lớn. Trong một thời gian dài, sự lý giải đơn giản quan hệ văn
học và hiện thực kiểu như vậy đã chiếm vị trí chủ đạo trong phê bình nghệ thuật
chính thống ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Ngoài cách hiểu mang nặng
tính thực dụng và tính chất ý thức hệ, khuynh hướng này còn bộc quan niệm phiến
diện và có phần hời hợt về ý nghĩa nhận thức của văn học hiện thực nói riêng. Ở
đây mọi phẩm chất của tác phẩm đều quy về giá trị hiện thực và giá trị hiện thực
này không được hiểu như tinh thần phân tích xã hội, nhận thức bản chất của cuộc
sống, bí ẩn của con người, như sự “ hiểu
đời” (chữ của Cao Bá Quát ), mà ở việc cung cấp “ bức tranh hiện thực” về một
giai đoạn lịch sử nào đó, cung cấp những kiến thức về một tầng lớp, giai cấp, một
cảnh sinh hoạt của một thời. Cách tiếp cận và phân tích tác phẩm như vậy đã ngự
trị rất lâu trong giới nghiên cứu và trong nhà trường Việt Nam, để lại những hậu
quả vẫn còn phổ biến cho đến tận hôm nay.
Nghệ thuật sáng tác theo định hướng
hiện thực, xem thế giới hiện thực bên ngoài như đối tượng nhận thức là một
khuynh hướng lớn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại. Dù không phải là toàn bộ
nghệ thuật, nghệ thuật hiện thực vẫn là một bộ phận lớn trong di sản văn hóa
tinh thần của nhân loại. Nhiều tác phẩm vẫn đang được sáng tác theo nguyên tắc
“phản ánh” hiện thực. Công chúng vẫn quen với việc tiếp nhận tác phẩm hiện thực.
Chủ nghĩa hiện thực vẫn là “ trí tuệ của đám đông, của đa số”
Tuy nhiên tính chân thực của sự “phản
ánh” không phải là tiêu chuẩn chính yếu, là giá trị duy nhất hay cốt lõi của
tác phẩm nghệ thuật và bản thân việc “phản ánh hiện thực” cũng không phải là đặc
trưng bản chất của nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng. Không nên tuyệt đối
hóa giá trị hiện thực của tác phẩm. “ Phản ánh” hiện thực, cho dù là phản ánh
có chọn lựa, có sáng tạo, có kèm theo sự đánh giá và phán xét của người viết đối
với cái được mô tả chứ không phải phản ánh theo kiểu tấm gương, sao chép hoặc
thờ ơ, thì đó cũng chỉ là một mặt của hành động sáng tạo, của nội dung tác phẩm.
L. Tolstoi đã từng nói: “ Chủ nghĩa hiện thực làm yếu tư tưởng” ( L. Tolstoi,
39). Nghĩa là “ chủ nghĩa hiện thực” và “ tư tưởng” là hai mặt khác nhau và ý của L. Tolstoi ở đây là nếu
nhà văn quá sa đà vào “phản ánh” đời sống hoặc vào mô tả thật chân thực để cho hấp dẫn thì điều đó có thể khiến người
viết sao nhãng việc thể hiện những quan niệm, những “tư tưởng” và đồng thời do
đó cũng lôi kéo người đọc khỏi những vấn đề được đặt ra, tức là “ làm yếu” những
mặt khác, đặc biệt là tư tưởng.
Ba mươi năm trước tôi có viết: “…văn học trước hết không phải là phản ánh hiện
thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực”( báo Văn Nghệ số 20,14/5/1988). Bài
viết gây nhiều tranh cãi. Người phản bác thì cho rằng đó là phủ nhận văn học phản
ánh hiện thực, người đồng tình thì nghĩ nói như vậy cũng chỉ cốt đề cao vai trò của chủ thể, tính tích cực của sự
phản ánh. Thật ra ai đọc kỹ bài viết sẽ thấy tôi không hề phủ nhận hoàn toàn việc
văn học phản ánh hiện thực và cũng không phải chỉ nhấn mạnh tính tích cực của
nhà văn trong quá trình phản ánh.“ Nghiền
ngẫm về hiện thực” nói ở đây không phải là một phương diện của sự phản ánh,
không phải “nghiền ngẫm” để phản ánh
cho sâu sắc hơn, mà là một mặt khác của nghệ thuật, của tác phẩm. Nghiền ngẫm về
hiện thực là trăn trở, chiêm nghiệm về cuộc đời, về sự sống, về cõi nhân sinh
và từ đó sẽ nảy sinh ra tư tưởng. Tư tưởng ấy, nói theo L. Tolstoi, không phải
là một mặt của “chủ nghĩa hiện thực”, mà là một phương diện khác tồn tại cùng với
“chủ nghĩa hiện thực”.
Nghệ thuật không chỉ mang lại bức tranh về đời sống mà còn chứa đựng tư tưởng – tình cảm của người cầm bút và những khám phá sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Trong nghệ thuật, giúp người ta biết thêm điều gì đó về thế giới bên ngoài là cần thiết, nhưng mang lại cho người ta trải nghiệm về những chân lí xưa cũ hay dù chỉ là những rung động thoáng qua, những cảm giác về một âm thanh, một màu sắc cũng đều cần thiết như nhau. Bởi vậy quan trọng không phải là “hiện thực” hay “không hiện thực” mà ở nội dung tinh thần, ở giá trị tư tưởng- nhận thức và chất lượng nghệ thuật của tác phẩm.
Xem xét và đánh giá lại quan niệm mác-xit về “văn học phản ánh hiện thực” không đồng nghĩa với việc phủ nhận hoàn toàn khả năng nhận thức và mô tả hiện thực của văn học, cũng như khước từ nguyên tắc hiện thực XHCN không có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa hiện thực và nguyên tắc sáng tác hiện thực nói chung. Ngày nay nếu văn học theo định hướng “phản ánh hiện thực” không được chào đón như trước đây nữa thì ngoài vấn đề giá trị và chất lượng của tác phẩm, tài năng của nhà văn, đó còn do yếu tố thị hiếu, yếu tố thời đại. Mỗi thời thường có những chọn lựa, sở thích về cái hay, cái đẹp riêng.
Sài Gòn, 12/2017
TÁC
GIẢ TRÍCH DẪN:
Berger, P.
& Luckmann T. ( 2015) Sự kiến tạo xã
hội về hiện thực ( Trần Hữu Quang chủ biên dịch và chú thích ), TriThức, HN
Carroll,
Noel ( 2007) Philosophy of Art,
Routledge, London & New York
Dostoevsky,
F.M. ( 1987) Về văn học Nga ( tiếng
Nga), Nxb. Người Đương Thời, Moskva
Gadamer, G.
H. (2003) Truth and Method, second ed.,
Continuum, N.Y.
Tolstoi,
L.N. ( 1985) Toàn tập ( 22 tập), tập 22 ( tiếng Nga), Moskva
L.N.T