Chất liệu và Hình thức - Nghĩa và Ý nghĩa (Tiếp theo và hết)
.......Đặc thù của huyền thoại, theo R. Barthes, “là biến đổi nghĩa thành hình thức” (71). Đây thực chất cũng chính là quá trình “lạ hóa” mà các nhà hình thức Nga hay nói đến hay quá trình “khắc phục ngôn ngữ” mà nhiều nhà lý luận đã đề cập. Chẳng hạn, xuất phát từ quan niệm cho rằng: “Mục đích của nghệ thuật là khơi dậy một cảm giác về sự vật như nó được cảm nhận chứ không phải như nó vốn được biết. Thủ pháp của nghệ thuật là làm cho sự vật thành “lạ” đi”, V.Sklovsky đã phân tích cái cách mà L.Tolstoy sử dụng để làm cho sự vật với cái nghĩa quen thuộc trở nên lạ đi, khác đi. Ông viết: “Tolstoy biến cái quen thuộc trở nên xa lạ bằng cách không gọi sự vật bằng tên đã quen thuộc. Ông miêu tả sự vật dường như nó lần đầu tiên được nhìn thấy, một sự việc dường như lần đầu nó xảy ra. Khi mô tả một cái gì đó ông tránh không dùng tên chỉ các bộ phận của nó đã quen thuộc mà thay vào đó đã dùng tên của các bộ phận tương ứng ở các sự vật khác” (72). Tên của sự vật là cái nghĩa của nó. Để sự vật trở thành cái biểu đạt, trước hết phải khắc phục cái nghĩa vốn có gắn với cái tên của nó. Quá trình khắc phục ngôn ngữ này là bản chất của sáng tạo văn học, đặc biệt là của thơ ca, “Văn học – D.Likhatchiov viết – đó không phải chỉ là nghệ thuật ngôn từ, đó còn là nghệ thuật khắc phục ngôn từ… Trong văn học luôn diễn ra sự khắc phục những nghĩa thông thường, nghĩa từ điển của ngôn từ” (73).
Cái hay của thơ ca và cái khó của thơ ca chính là ở chỗ mỗi từ đều có sẵn một nghĩa cố định. Dùng từ này để diễn tả một cái gì đó không trùng với nghĩa có sẵn của nó là rất khó; nhà thơ phải vượt qua nó, vượt qua không phải bằng sự khắc phục có tính chất phủ định đơn thuần, làm mất hết sự sống của từ, biến nó thành một thứ ký hiệu vô hồn như trong toán học, mà vượt qua bằng cách “biến nghĩa thành hình thức”, một hình thức vừa vẫn giữ được vẻ tươi mới của từ, vừa in đậm dấu vết tâm trạng và cá tính nhà thơ, lại vừa biểu đạt một nội dung sâu xa chứa đựng tiếng nói của nhà thơ về tình yêu, nỗi buồn, về thời cuộc, vượt qua bằng cách nói như R.Jakobson “không phải xóa đi cái nghĩa sở chỉ (the reference) mà làm cho nó trở nên mơ hồ nước đôi (ambiguous)” (74). Với cách đó tác phẩm thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung sẽ mang vô số nghĩa, nghĩa đen nghĩa bóng, nghĩa gần nghĩa xa, nghĩa rộng nghĩa hẹp, nghĩa trực tiếp nghĩa gián tiếp, các nghĩa chồng lên nhau làm cho tác phẩm trở nên đa nghĩa, mập mờ, nước đôi. Chính tính chất nhiều lớp, nhập nhằng nhiều khi như tối nghĩa này là đặc điểm bản chất của thơ ca. “Tính mơ hồ nước đôi (ambiguity) là tính chất nội tại, không thể chuyển nhượng của mọi loại thông báo tự hướng vào mình, hay nói ngắn gọn, là đặc điểm tất yếu của thơ ca.” (75)
Trở lên chúng ta đã nói về quan hệ giữa nghĩa và hình thức, về cách tiếp nhận nghĩa của tác phẩm ở người đọc cũng như về cách ứng xử của nghệ sĩ, nhà thơ với chất liệu để biến âm thành âm mang nghĩa, biến nghĩa thành hình thức. Tuy nhiên trong nghệ thuật, hình thức không chỉ quan hệ với nghĩa. Nếu chỉ xếp hình thức trong quan hệ với nghĩa tức là chỉ xét hình thức trong khuôn khổ cặp phạm trù hình thức - nội dung và trong cách nghĩ thông thường, ở đây vai trò hình thức vẫn chỉ được xem như cái mang nghĩa, phương tiện chuyển tải nghĩa.
Để hiểu đầy đủ hơn tầm quan trọng của hình thức nghệ thuật, bên cạnh việc xem xét vấn đề hình thức và nghĩa, cần khảo sát thêm một vấn đề nữa có liên quan ở đây, đó là nghĩa và ý nghĩa.
Xung quanh các khái niệm nghĩa và ý nghĩa có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Trong tác phẩm “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương”, F.Saussure phân biệt nghĩa (signification) với giá trị (value). Mỗi từ, theo Saussure, đều mang một nghĩa, “nghĩa là mặt kia của hình ảnh – âm thanh”, nhưng nghĩa này sẽ thay đổi khi các từ kết hợp với những từ khác và lúc đó bên cạnh nghĩa, từ sẽ mang thêm một giá trị. Giá trị cũng là một yếu tố của nghĩa nhưng không là nghĩa. “Nội dung của từ chỉ thực sự được xác định nhờ sự hợp lực của mọi thứ tồn tại bên ngoài nó. Là một phần của hệ thống, từ không chỉ mang sẵn một nghĩa mà còn và đặc biệt còn mang một giá trị và đó là một cái gì đó hoàn toàn khác”.(76)
Tiếp thu tư tưởng trên đây của F.Saussure, trong công trình “Cơ sở của ký hiệu học”, Roland Barthes thay thế cặp khái niệm nghĩa và giá trị bằng nghĩa và ý nghĩa. Nghĩa theo R.Barthes,“là hành động thống nhất cái được biểu đạt và cái biểu đạt, một hành động mà sản phẩm của nó là ký hiệu”(77). Khái niệm nghĩa xuất hiện khi chúng ta xem xét ký hiệu từ điểm nhìn “kết cấu”, còn ý nghĩa xuất hiện do sự phân bố của các yếu tố ngôn ngữ, do vị trí của ký hiệu trong môi trường xung quanh nó. Như vậy, tuy không sử dụng cặp khái niệm nghĩa và giá trị, nhưng về thực chất R.Barthes vẫn dùng các từ nghĩa và ý nghĩa với nội hàm như quan niệm của F.Saussure.
Ở đây, khi đặt vấn đề nghĩa và ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, chúng ta sẽ không sử dụng các thuật ngữ này như trong lý thuyết ký hiệu học của R.Barthes hay ngôn ngữ học của F.Saussure. Ở đây, nghĩa được hiểu vừa là nội dung được biểu đạt vừa là nghĩa như cái vốn có của cái biểu đạt, còn ý nghĩa là giá trị, tầm quan trọng của cái biểu đạt, tức là của hình thức. Và nếu hiểu như vậy thì ý nghĩa của hình thức không chỉ giới hạn trong nghĩa và chữ “giá trị” ở đây cũng không phải “giá trị” theo cách hiểu của Saussure.
Tạm để sang một bên vấn đề “chất liệu bên trong” như quan niệm của J.Dewey và “hình thức kiến tạo” được hiểu như hình thức bên trong theo quan niệm của M.Bakhtin, chúng ta sẽ đi sâu xem xét mối quan hệ giữa nghĩa và ý nghĩa của hình thức với tư cách là cái biểu đạt, bao gồm hình thức của chất liệu và hình thức kết cấu. (78)
Như đã nói ở trên, hình thức nghệ thuật vừa gắn với chất liệu, vừa là sự khắc phục chất liệu. Vì bản thân chất liệu đã mang nghĩa nên nghĩa của hình thức bao gồm ít nhất là nghĩa của chất liệu và nghĩa mà sự khắc phục chất liệu mang lại, tức là nghĩa như nội dung của cái được biểu đạt. Cái nghĩa này tạo nên một giá trị quan trọng của hình thức - đó là nội dung nhận thức của tác phẩm. Hình thức không phải nội dung nhận thức nhưng nó chuyên chở nội dung nhận thức, bởi vậy cũng có thể nói về ý nghĩa nhận thức của hình thức, về tầm quan trọng của hình thức đối với việc chuyển tải nghĩa của tác phẩm.
Nhưng ý nghĩa hay giá trị của hình thức trong tác phẩm nghệ thuật không bó hẹp chỉ trong quan hệ với nghĩa. Đó chính là chỗ khác nhau giữa ngôn ngữ học và thi pháp học nói riêng và nghệ thuật học nói chung. Trong ngôn ngữ học, như F.Saussure đã chỉ ra, ngôn ngữ là hình thức chứ không phải là chất liệu và “cái biểu đạt trong ngôn ngữ không phải là cái có tính chất âm học mà là cái phi vật thể, nó được tạo ra không phải bằng thực thể chất liệu của nó mà bằng sự khác nhau đã phân biệt hình ảnh – âm thanh của nó với tất cả những cái khác nhau” (79). Trong ngôn ngữ, cũng theo Saussure, chất liệu không gắn với nghĩa, quan hệ giữa chất liệu và nghĩa hoàn toàn mang tính võ đoán (arbitrary), cũng giống như giá trị của đồng tiền không phụ thuộc vào chất kim loại bằng đồng hay bằng bạc dùng để đúc nó và bởi vậy không thể nói trong từ tư tưởng được vật chất hóa hay âm thanh được tinh thần hóa. Ở đây âm thanh tự nó không mang nghĩa. “Điều quan trọng trong từ là -Saussure viết - không phải tự bản thân âm thanh mà chính những sự khác nhau về âm thanh mới tạo ra sự phân biệt của từ này với tất cả các từ khác do sự khác nhau này có mang nghĩa” (80). Cũng tương tự như vậy, trong hệ thống tín hiệu khác là văn tự, theo Saussure hình thù của chữ viết không quan trọng, nó không liên hệ gì với nghĩa: “Cho dù tôi viết chữ màu trắng hay màu đen, viết nổi hay viết chạm, dùng bút hay dùng đục thì tất cả điều này chẳng quan trọng gì đối với nghĩa của chữ”. (81)
Đều này rõ ràng khác với nghệ thuật. Trong tác phẩm nghệ thuật, như đã phân tích ở trên, không chỉ hình thức mà cả chất liệu cũng đều có thể mang nghĩa. Hình thù và chất liệu của chữ viết, xét về phương diện ngôn ngữ học, có thể không có quan hệ gì với nghĩa nhưng nếu xét về phương diện sáng tạo nghệ thuật, thì lại rất quan trọng. Thư pháp là một ví dụ rất điển hình.
Trong công trình “Ngôn ngữ học và Thi pháp học” R. Jakobson đã chứng minh rằng trong thơ ca, khác trong ngôn ngữ, âm có quan hệ với nghĩa. “Những từ tương tự về âm thanh, R.Jakobson viết, kéo theo sự tương đồng về nghĩa” (82). Ông dẫn câu nói của Alexander Pope “Mỗi âm thanh cần phải được xem như một tiếng vang của nghĩa”, những kết cấu âm thanh của dòng thơ, khổ thơ, bài thơ là những “dòng chảy ngầm của nghĩa” và kết luận: “Trong thơ ca bất kì sự tương đồng rõ rệt nào về âm cũng được xét như sự tương đồng hay bất tương đồng về nghĩa”. (83)
Như vậy, khác với ký hiệu ngôn ngữ, trong ký hiệu nghệ thuật, trong huyền thoại, âm và nghĩa hay nói rộng ra là cái vật chất và cái tinh thần không kết hợp với nhau một cách “võ đoán” mà gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau. Nếu với ngôn ngữ học không thể nói trong từ “tư tưởng được vật chất hóa và âm thanh được tinh thần hóa” (F.Saussure), thì với nghệ thuật ngược lại âm thanh và tư tưởng hòa quyện rất chặt với nhau. Đó chính là bản chất của sáng tạo nghệ thuật, bản chất của quá trình đạt đến cái tuyệt mỹ. Trong tác phẩm “Ý nghĩa chung của nghệ thuật”, nhà mỹ học Nga thế kỉ XIX V.Soloviov đã viết về điều này một cách đầy cảm hứng: “Quả thật, chừng nào tinh thần chưa có khả năng làm cho nội dung bên trong của mình biểu hiện trực tiếp ra ngoài, hay là nhập thân vào hiện tượng vật chất và mặt khác, chừng nào vật chất chưa có khả năng tiếp thu tác động lý tưởng của tinh thần, chưa có khả năng nhuần thắm tinh thần, tự cải biến hay hóa hình thành tinh thần, thì tức là bản thân lý tưởng, mà nội dung của nó chính là sự liên kết hoàn hảo của toàn bộ cái hiện hữu, trong sự hiện diện của nó ở đây chưa có đủ sức mạnh để thực hiện mình đến cùng hay là thể hiện đầy đủ bản chất của mình. Cái tinh thần trừu tượng, không có khả năng nhập thân một cách sáng tạo và cái vật chất vô hồn, không có khả năng nhuần thắm tinh thần - cả hai đều không ứng hợp với kiểu thức sinh tồn lý tưởng hay là xứng đáng và cả hai đều mang trên mình dấu chỉ rành rành về tính không xứng đáng ấy: cả hai đều không đẹp và không thể đẹp. Như vậy, để cho phẩm chất đẹp ấy hiện diện đầy đủ cần có: 1. Sự vật chất hóa trực tiếp của bản chất tinh thần và 2. Sự tinh thần hóa đến cùng hiện tượng vật chất….”. (84)
Sự thống nhất giữa cái vật chất và cái tinh thần trong nghệ thuật không chỉ là sự thống nhất giữa âm và nghĩa, màu với nghĩa hay chữ với nghĩa. Đó chỉ là một phương diện- phương diện nhận thức - trong mối quan hệ giữa chất liệu, hình thức với ý nghĩa hay giá trị của chúng. Ý nghĩa của cái biểu đạt rộng hơn nội dung (tức nghĩa) mà nó được biểu đạt. Ngoài giá trị nhận thức cái biểu đạt còn mang nhiều giá trị khác, trong đó có giá trị thẩm mỹ. Đọc câu thơ của thi sĩ Ngân Giang:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch lưng trời bóng lẻ soi.
chúng ta không chỉ biết nhà thơ nói về Hai Bà Trưng cưỡi voi đeo băng tang, xông pha chống chọi với kẻ thù phương Bắc, trong lòng tràn ngập nỗi đau mà còn cảm thấy lòng mình trào dâng một cảm xúc bi tráng toát lên từ hình ảnh vó ngựa kinh hoàng, làm cho quân thù khiếp đảm, từ sắc vàng lấp lánh oai nghiêm trên chiến bào của người nữ tướng và nhất là từ vành khăn tang như ướt đẫm, trĩu nặng nỗi đau, làm lạnh cả đầu con voi chiến. Câu “Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi” với những âm có dấu nặng, dấu huyền kéo câu thơ chùng xuống, nhất là mấy chữ “lạnh đầu voi” với âm sắc đặc biệt của nó như một dòng điện chạy khắp bài thơ, truyền đi nỗi buồn tê tái, dấy lên ở người đọc một cảm xúc vừa chiêm ngưỡng, vừa hào hùng, vừa đau thương.
Ý nghĩa, giá trị của chất liệu hay hình thức là ở chỗ nó vừa mang lại một thông báo, một tư tưởng, một tình cảm nào đó, vừa khơi dậy những cảm xúc, những rung động thẩm mỹ, mang lại cho người đọc, người xem, người nghe không chỉ niềm vui của sự khám phá và hiểu biết mà còn niềm vui của khoái cảm thẩm mỹ. Khi C.Bell khẳng định rằng đặc trưng của nghệ thuật là ở chỗ nó tạo ra những “hình thức có ý nghĩa” (Significant form), ông đã dùng chữ “ý nghĩa” (Significant) theo nghĩa đó: “Khi tôi nói hình thức có ý nghĩa, C.Bell viết là tôi muốn nói đến một sự phối hợp của các đường nét và màu sắc (trắng và đen cũng là màu) gây cho tôi những rung động về mặt thẩm mỹ”. (85)
Chính việc tạo ra những rung động thẩm mỹ này, trong một chừng mực nào đó có thể nói, mới là ý nghĩa quan trọng của sự lựa chọn chất liệu hay hình thức. Triết gia Anh nổi tiếng thế kỉ XIIIV, George Berkeley đã từng nói về điều này rất rõ. Ông viết: “Việc truyền đạt ý niệm bằng từ ngữ không phải là mục đích chủ yếu và duy nhất của ngôn ngữ như nhiều người nghĩ. Có những mục đích khác, như làm dậy lên niềm đam mê, kích thích hay ngăn cản hành động, gây nên một trạng thái tâm lý nào đó – đối với những mục đích này thì trong nhiều trường hợp, mục đích truyền đạt ý niệm chỉ là thứ yếu, và đôi khi hoàn toàn không có vai trò gì… Phải chăng trong lúc nghe hay đọc một bài văn lại không thường xảy ra hiện tượng là: những tình cảm mãnh liệt như sợ hãi, yêu thương, thù hận, ngưỡng mộ, khinh bỉ v.v.. lập tức trỗi dậy trong lòng mình nhờ nhìn thấy một vài từ nào đó mà không có bất kì ý niệm nào xen vào giữa. Thật vậy, trước hết từ ngữ có thể đã gây ra những ý niệm thích hợp cho việc sản sinh những tình cảm nói trên; nhưng, nếu tôi không lầm, người ta sẽ nhận thấy rằng, một khi ngôn ngữ đã trở nên quen thuộc, thì việc nghe âm thanh hay nhìn thấy các kí tự thường lập tức xuất hiện với những tình cảm vốn đã quen được sản sinh nhờ sự có mặt những ý niệm mà bây giờ hoàn toàn không cần đến”. (86)
* *
*
Hình thức trong sáng tạo nghệ thuật là một khái niệm phức tạp, nhiều mặt. Người ta có thể nói về hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong được hiểu như sự tượng hình của bản thân các ý niệm hay tình cảm, nó chưa gắn với chất liệu. Hình thức bên ngoài có khi là hình thức của chất liệu hay bản thân chất liệu, có khi là những phương tiện diễn đạt đã gắn với chất liệu. Khái niệm chất liệu cũng có nhiều phương diện khác nhau. Có chất liệu bên ngoài và chất liệu bên trong. Chất liệu bên ngoài như âm thanh, gỗ, đá, từ ngữ, chất liệu bên trong như các ý nghĩ, tình cảm, ấn tượng v.v.. Bản thân chất liệu đã mang nghĩa và có những ý nghĩa khác nhau, trong đó có ý nghĩa thẩm mỹ. Khắc phục chất liệu là quy luật của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, ở đó bên cạnh sự khắc phục tính bướng bỉnh thô mộc tự nhiên của chất liệu để hình thành tác phẩm theo những quy tắc của ngôn ngữ học, của khúc thức âm nhạc hay những nguyên tắc của cái đẹp mỹ thuật, đáng chú ý còn có sự khắc phục về nghĩa, “biến nghĩa thành hình thức”.
Đặc trưng của hình thức nghệ thuật, sự khác biệt của hình thức trong tác phẩm nghệ thuật với hình thức trong những sản phẩm khác, trong các công trình khoa học là ở chỗ, trong tác phẩm nghệ thuật, cái biểu đạt và cái được biểu đạt thẩm thấu vào nhau, liên đới với nhau, cái biểu đạt không phải là chất liệu hay là sự tổ chức chất liệu vô hồn mà thấm đượm tinh thần, tình yêu hay nỗi buồn, tâm trạng, suy tư của tác giả; nói cách khác, nó là những “hình thức có ý nghĩa”, những hình thức không chỉ có sứ mạng mang nghĩa mà còn tự mình ẩn chứa những vẻ đẹp và có khả năng gợi nên những cảm xúc thẩm mĩ, tác động mạnh mẽ vào tình cảm người đọc, người xem, người nghe.
Hiểu cho đầy đủ giá trị, ý nghĩa của hình thức cũng là khó, nhưng cảm cho được sức mạnh bí ẩn, vẻ đẹp, sự quyến rũ của nó có lẽ còn khó hơn nhiều. Nghệ thuật cũng là sự sống. Để hiểu và quan trọng hơn, để cảm được tác phẩm nghệ thuật, không gì bằng sống với nó. Chỉ có tình yêu và sự gần gũi với nghệ thuật mới giúp chúng ta đến gần được với nó, tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong nó./.
Sài Gòn, 11/4/2014
Chú thích:
(1) I.Kant: Phê phán năng lực phán đoán (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Nxb. Tri Thức, HN, 2006, trang 101 (Chỗ in đậm trong nguyên tác).
(2) Hans – Georg Gadamer. Truth and Method. Continuum. New York, 1988, P.92. Nhấn mạnh của chúng tôi – LNT.
(3) M. Bakhtin, Voprosyi Literaturyi i estetiki, Khudodjestvennaia Literatura. Moskva, 1975, tr.57.
(4) M. Bakhtin, Sđd., trang 46.
(5) M. Bakhtin, Sđd., trang 14.
(6) M. Bakhtin, Sđd., trang 56. Việc phân chia khái niệm “hình thức kiến tạo” và “hình thức kết cấu” của M. Bakhtin có phần giống với sự phân biệt khái niệm “hình thức của nội dung” và “hình thức của sự thể hiện” ở nhà ngôn ngữ học Đan Mạch L.Hjelmslev. Trong tác phẩm “Prolegomena to a Theory of Language”, Hjelmslev cho rằng ngôn ngữ có hai bình diện: bình diện thể hiện và bình diện nội dung, mỗi bình diện có thể chia ra hai cấp độ: hình thức và thực thể. Thành ra rút cục theo nhận xét của Roland Barthes, chúng ta có 4 cấp độ: 1) Thực thể của sự thể hiện (Tức là chất liệu tự nhiên, ví dụ âm của ngôn ngữ), 2) Hình thức của sự thể hiện (tức hình thức của chất liệu), 3) Thực thể của nội dung (Ví dụ như tư tưởng, tình cảm được biểu đạt) và 4) Hình thức của nội dung (tức tổ chức có tính chất hình thức của quan hệ giữa những cái được biểu đạt (xem Roland Barthes: Cơ sở của ký hiệu học, trong sách “Chủ nghĩa cấu trúc và văn học” của Trịnh Bá Đĩnh, Nxb. Văn học, HN, 2002, trang 319-320)).
(7) M. Bakhtin, Sđd., trang 14
(8) M. Bakhtin, Sđd., trang 56
(9) M. Bakhtin, Sđd., trang 15
(10) C. Bell, Art, trong sách “Aesthetics: Classic Reading from The Western Tradition”, Jones and Bartlett Publishers, USA, 1996, P.328-329.
(11) M. Bakhtin, Sđd., trang 57
(12) M. Bakhtin, Sđd., trang 58
(13) C. Bell, Sđd., trang 338
(14) R. Barthes, Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb. Tri Thức, HN, 2008, trang 300.
(15) R. Barthes, Sđd., trang 336.
(16) R. Barthes, Sđd., trang 289
(17) R. Barthes, Sđd., trang 336
(18) R. Barthes, Sđd., trang 327
(19) R.Barthes, Sđd., tr.293
(20) R.Barthes, Sđd., tr.294
(21) R.Barthes, Sđd., tr.294-295
(22) M.Bakhtin, Sđd., tr.49. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, R.Barthes mới bắt đầu tiếp xúc với các tác phẩm của M.Bakhtin nhờ Julia Kristeva lúc ấy là sinh viên người Bungari đang học ở Paris. Điều này đã góp phần tạo một bước ngoặt lớn trong quan niệm của R.Barthes. Nhưng cuốn “Những huyền thoại” của ông được viết từ trước đó (1957).
(23) G.Santayana, The Sense of Beauty (Thưởng thức cái đẹp), Dover Publications, Inc., New York, P.53
(24) I. Kant, Phê phán năng lực phán đoán, Sđd.,tr.97-98
(25) I.Kant, Sđd., tr.98-99
(26) I.Kant, Sđd., tr.98
(27) I.Kant, Sđd., tr.101
(28) Xem: Donald Keene: Japanese Aesthetics (Mỹ học Nhật Bản), trong sách: Japanese Aesthetics and Culture, Ed. By Nancy G. Hume, State University of New York Press, 1995, P.27-41.
(29) Yuriko Satto, Japanese Aesthetics (Mỹ học Nhật Bản) trong Encyclopedia of Aesthetics, Ed. By Michael Kelly, OxfordUniversity Press, 1998, Volume 2, P.551
(30) G. Santayana, Sđd., tr.31
(31) G. Santayana, Sđd, tr.31
(32) G.Santayna, Sđd., tr.48
(33) G.Santayna, Sđd., tr.49
(34) Nguyễn Tuân: Về tiếng ta, bài đăng trong Tạp chí Thơ, Hội Nhà văn VN, số 7/2012, tr.82
(35) G.Santayna, Sđd., tr.49
(36) G.Santayana, Sđd., tr.49
(37) G.Santayana, Sđd., tr.51
(38) A.Burov, Estetika: problemyi I sporyi (Mỹ học: các vấn đề và những tranh cãi), Moskva, “Iskusstvo”, 1975, tr.173
(39) I.Kant, Sđd, tr.100
(40) Dẫn theo Bùi Văn Nam Sơn trong phần giới thiệu cuốn “Phê phán năng lực phán đoán” của Kant, Sđd., tr.XLV
(41) Hans – Georg Gadamer, Truth and Method, Sđd., tr.92
(42) John Dewey: The Act of Expression, trong cuốn “The Critical Tradition. Classic Texts and Contemporary Trends. Ed. By David H.Richter St Martin’s Press, New York, 1989, pp.489
(43) J.Dewey, Sđd., tr.497
(44) T.S.Eliot: Tradition and Individual talent, trong cuốn 20th Century Literary Criticism, Ed. By David Lodge, Longman, New York, 1972, tr.76
(45) M.Bakhtin, Sđd., tr.23
(46) F.Sparshott, The Future of Aesthetics (Tương lai của mỹ học), University of Toronto Press, Canada,1996, P.96
(47) I. Kant, Sđd., tr.106
(48) I.Kant, Sđd., tr.106
(49) Trong cuốn “The Structure of Aesthetics” (University of Toronto Press, 1970), F.Sparshott cho rằng những điều Kant bàn về cái đẹp không liên quan đến nghệ thuật. Chính F.Schiller mới là người lẫn lộn điều này: “Cái mà Kant nó về đẹp thì ông (tức Schiller – L.N.T) áp dụng vào nghệ thuật” (tr.206)
(50) Hegel, Estetika (bốn tập, tiếng Nga), tập I, Nxb. “Iskusstvo”, Moskva, 1968, tr.8
(51) Tchernyishevsky.N.G, Những quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với hiện thực, trong cuốn Estetika, tiếng Nga, Nxb Khudodjestvennaia Literatura, Moskva, 1958, tr.124, 147
(52) Tchernyishevsky, Sđd., tr.162
(53) K.Marx cũng có quan niệm tương tự khi cho rằng trong mọi hoạt động của mình, con người đều có thể “chế tạo theo những qui tắc của cái đẹp” và đó là một trong những dấu hiệu quan trọng, phân biệt con người và con vật. (Xem “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”)
(54) Tchernyishevsky, Sđd., tr.159-160
(55) Denis Diderot, Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2013, tr.150
(56) Noel Carroll, Philosophy of art, Routledge, New york, 1999, P.203
(57) M.Bakhtin, Sđd., tr.29
(58) N.K.Gei: Tính siêu nghệ thuật của văn học, trong cuốn: Teoria Literaturyi (Lý luận văn học, nhiều tác giả), Viện Văn học thế giới mang tên A.Gorky, Nxb. Imli RAN, Moskva, 2005, tập 1, tr.97
(59) Roland Barthes, Sđd.,tr.327
(60) Dẫn theo A.Burov, Estetika, Sđd., tr.58
(61) Noel Carroll, Philosophy of Art, Rutledge, New York, 1999, pp.153
(62) I.Kant, Sđd., tr.106
(63) J.P.Sartre. “Viết” là gì? Trong sách “Zarubezhnaiya Estetika u Teoriya Literatuiy 19 – 20 vv” (Mỹ học và lý luận văn học nước ngoài thế kỷ 19-20) (tiếng Nga), Nxb. MU, 1987, tr.321-322
(64) J. P Sartre, Sđd., trang 317.
(65) Roland Barthes, Sđd., trang 331.
(66) John Dewey, Sđd., tr.495
(67) D.Diderot. Sđd., tr.203-204
(68) F. D. Saussure. Course in General Linguistics. Trong cuốn Literary Theory: an anthology, Blacwell, USA, pp.89
(69) R. Barthes, Sđd., trang 330
(70) R. Barthes, Sđd., trang 327
(71) R. Barthes, Sđd., trang 327
(72) V.Sklovsky, Ant as Technique. Trong sách “The Critical Tradition: Classic tekts and Contemporary trends, Ed by David H. Richter, St. Martin’s Press, New York, 1989, pp.741, 742.
(73) D. Likhatchiov (1906-1999), viện sĩ, nhà ngữ văn Nga nổi tiếng, trong sách: Pisma o dobrom (Những bức thư về điều thiện), Saint. Peterburg, 2013, tr.149
(74) R.Jackobson, linguistics and Poetics (Ngôn ngữ học và Thi pháp học), trong cuốn Modern Criticison and Theory Ed. By David Lodge, Longman, London, 1988, pp. 50
(75) R.Jakobson, sđd, trang 49.
(76) F. Saussure, Course in General Linguistics, Sđd., trang 84.
(77) R.Barthes, Cơ sở của Ký hiệu học, trong sách “Chủ nghĩa cấu trúc và Văn học” của Trịnh Bá Đĩnh, nxb Văn Học, 2002, trang 325.
(78) M.Bakhtin viết: “Trong các công trình của mỹ học chất liệu tất yếu xảy ra sự lẫn lộn thường gặp giữa các hình thức kiến tạo và hình thức kết cấu” và các hình thức kết cấu thì “thường được giải thích như hình thức của chất liệu“ (Voprosyi Literaturyii Estetiki, sđd., trang 45,56)
(79) F.Saussure, Sđd., trang 86.
(80) F.Saussure, Sđd., trang 86.
(81) F.Saussure, Sđd, trang 87, 88.
(82) R.Jakobson, Sđd., trang 50.
(83) R.Jakobson, Sđd., trang 51.
(84) V. Soloviov, Siêu lý tình yêu (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb. Tri Thức, HN. 2011, tập 3, trang 60.
(85) C. Bell, Art, Sđd., trang 330.
(86) George Berkeley, Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (Đinh Hồng Phúc, Mai Sơn dịch), nxb. Tri Thức, 2013, trang 75-76.