Biểu tượng thiên nhiên trong truyện Kiều (Phần II)

 

BIỂU TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN KIỀU (PHẦN II)

 

PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

Lần đầu sau khi mơ thấy Đạm Tiên, Thúy Kiều đã mơ hồ cảm thấy cuộc đời mình từ nay sẽ không biết sẽ ra sao và  Kiều tự nghĩ về thân phận mình:

Hoa trôi bèo dạt đã đành

Biết duyên mình biết phận mình thế thôi

 

Motif bèo dạt hoa trôi này còn xuất hiện một lần nữa dưới dạng khác, trong lời Kim Trong tự trách mình đã để Kiều rơi vào cảnh mười lăm năm lưu lạc :

Rằng :” Tôi trót quá chân ra

Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo

 

Ngoài sự kết hợp Bèo Hoa còn có sự kết hợp Bèo và Mây. Một lần, khi thuyết phục Thúc Sinh nên về thăm nhà và công khai với gia đình quan hệ với mình để tránh tai vạ về sau, Thúy Kiều tự ví mình như cánh bèo bấp bênh, mây bay gió thổi:

Vẻ chi chút phận bèo mây

Làm cho bể ải khi đầy khi vơi

 

Ở đây biểu tượng song đôi bèo dạt mây trôi được thu lại thành biểu tượng kép bèo mây, nhưng ở những chỗ khác nó lại được bung ra thành nhiều dạng khác nhau:

Vì ai rụng cải rơi kim

Để con bèo nổi mây chìm vì ai

 

Đó là lời Vương ông tự than trách mình trước lúc Thúy Kiều sắp phải rơi vào cảnh lưu lạc. Còn đây là lời lão Đô già kể về số phận ba chìm bảy nổi của Thúy Kiều cho Kim Trọng và gia đình Kiều nghe:

Thoắt buôn về thoắt bán đi

Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi

 

Chỉ một lần duy nhất biểu tượng Bèo Mây  không trực tiếp ám chỉ số phận lênh đênh của Thúy Kiều, đó là khi Kiều đã thực hiện xong việc trả thù và tiễn Giác Duyên ra về. Kiều lo lắng không biêt khi nào gặp lại Giác Duyên:

Rồi đây bèo hợp mây tan

Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu

 

Một chỗ khác, khi kể về cảnh Thúy Kiều băn khoăn, tính toán trong việc nên khuyên Từ Hải hàng hay không nên hàng, Nguyễn Du tả suy nghĩ của Kiều:

Nghĩ mình mặt nước cánh bèo

Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân

 

Biểu tượng Bèo một lần nữa lại thay đổi. Thay vào tương quan với Hoa ( Hoa trôi bèo dạt ) và với Mây ( Bèo mây )giờ đây là tương quan với Nước ( Mặt nước cánh bèo ). Biểu tượng này còn được lắp lại một lần nữa trong đoạn tả cảnh Thúy Kiều cân nhắc đắn đo, chuẩn bị trốn khỏi nhà Hoạn Thư. Kiều tự nghĩ về mình :

Phận bèobao quản nước sa

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh

 

Chúng ta thấy từ một biểu tượng song đôi ( mặt nước cánh bèo ) Nguyễn Du đã chuyển sang  sử dụng biểu tượng biến thể ( phận bèo bao quản nước sa ) để tránh sự đơn điệu, lặp lại. Tính chất sáng tạo này còn biểu hiện rõ hơn khi Nguyễn Du chuyển từ cặp bèo nước  sang bèo sóng :

Ngọn bèochân sóng lạc loài

Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly

 

Đó là lời Kim Trọng nói về Kiều khi chàng đã nhẹ bước thanh vân và “ nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương”. Còn khi Vương ông khóc than kể lể sự tình trong ngày cả nhà đoàn viên thì thân phận Kiều trong những tháng năm phiêu bạt cũng được nhắc lại với hình ảnh bèo trôi sóng vỗ:

Từ con lưu lạc quê người

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm

 

Bèo sóng là hình ảnh hiếm gặp trong thơ xưa, kể cả trong ca dao. Có thể xem đây là sáng tạo của Nguyễn Du.

Như chúng ta thấy, từ một biểu tượng bèo mây  đã xuất hiện hàng loạt biểu tượng khác. Đọc những câu thơ trên đây có cảm giác như nghe một khúc biến tấu bắt đầu với âm bèo và tiếp theo là những giai

điệu khác nhau. Cái khéo của Nguyễn Du là đã không để âm nào lặp lại, trong suốt 10 câu thơ mỗi lần bèo lai hiện ra trong một kết hợp khác nhau, trong những âm điệu khác nhau.

Đáng chú ý là những hình ảnh khác nhau này đều tập trung vào một điểm : Thúy Kiều. Đời Kiều được nhìn từ những điểm nhìn khác nhau, từ Vương ông, Kim Trọng, Thúc Sinh và từ chính bản thân Thúy Kiều, nhưng dù từ góc độ nào thì Kiều cũng chì là chút phận bọt bèo, là chút thân phiêu bạt, luôn chịu cảnh hoa trôi bèo dạt, bèo nổi mây chìm, bèo hợp mây tan, mặt nước cánh bèo, ngọn bèo chân sóng, bèo trôi sóng vỗ,mây trôi bèo nổi, trôi hoa dạt bèo. Chừng ấy biểu tượng chỉ để chỉ một người, nằm rải rác nhiều chỗ trong suốt tác phẩm nhưng không hề lặp lại, rõ ràng đó là cái tài cái khéo của Nguyễn Du.

Trong Truyện Kiều ngoài những biểu tượng thiên nhiên trên còn có những biểu tượng mới có thể xem là sáng tạo của Nguyễn Du  như sen đào ( Những từ sen ngó đào tơ // Mười lăm năm ấy bây giờ là đây ) và một số biểu tượng khác như Bướm ong, yến anh, trăng hoa cũng được Nguyễn Du sử dụng với những thay đổi, biến hóa như trong trường hợp trúc mai, bèo.

Vì sao Truyện Kiều  lại có một mật độ dày đặc  các biểu tượng thiên nhiên như vậy?

Chúng ta đều biết Truyện Kiều là một tác phẩm kể chuyện. Truyện được xây dựng trên lời kể của người kể chuyện và lời nói của các nhân vật. Lời nói – kể cả lời người kể và lời nhân vật – muốn diễn tả một cách ngăn gọn và dễ hiểu điều định nói ra thì không gì tốt hơn là dùng các biểu tượng có sẵn. Các biểu tượng này thường là những cách diễn đạt ngăn gọn, súc tích và được cộng đồng thừa nhận, đã trở thành quen thuộc với tất cả mọi người. Bởi vậy việc sử dụng biểu tượng khi nói mang hiệu quả rất lớn. Đó là chưa kể nếu được tổ chức, kết cấu theo một hình thức nào đó, việc sử dụng  biểu tượng còn có thể  đem lại khoái cảm thẩm mĩ, có sức gợi cảm.

Truyện Kiều là câu chuyện của Nguyễn Du nên lời nói nhiều nhất là lời người kể. Có rất nhiều biểu tượng thiên nhiên được sử dụng trong lời người kể :

-         Tường đông ong bướm đi về mặc ai  / câu 38 /

-         Hoa trôi bèo dạt đã đành  / câu 219 /

-         Hạt mưa sá nghĩ phận hèn  / câu 619 /

-         Con ong đã tỏ đường đi lối về  / câu 846 /

-         Sớm đào tối mận lân la  /1289 /

-         Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng /  câu 2212 /

-         Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn  / câu 2944 /

-         v.v…

Nhưng người sử dụng biểu tượng thiên nhiên nhiều nhất có lẽ là Thúy Kiều. Trước hết đó là vì trong số các nhân vật của tác phẩm, Kiều là người nói nhiều hơn cả. Kiều nói với những người trong gia đình, với Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, với Tú Bà, Hoạn Thư, với Giác Duyên, với Hồ Tôn Hiến. Không tính lời người kể chuyện, lời của Kiều chiếm hai phần ba lời trong tác phẩm. Rất nhiều biểu tượng xuất hiện trong những câu nói của Thúy Kiều:

-         Nào người phượng chạ loan chung  / với Kim Trọng /

-         Đừng điều nguyệt nọ hoa kia  /  với Kim Trọng /

-         Vường hồng chi dám ngăn rào chim xanh / với Kim Trọng /

-         Mây mưa đánh đổ đá vàng

Quá chiều nên đã chán chường yến anh  / với Kim Trọng /

-         Thân lươn bao quản lấm đầu   với Tú Bà /

-         Thiếp như hoa đã lìa cành

Chàng như con bướm lượn vành mà chơi  / với Thúc Sinh /

-         Chút riêng chọn đá thử vàng / với Từ Hải /

-         Rồi đây bèo hợp mây tan

Biết đâu hạc nội mây ngàn  là đâu  / với Giác Duyên /

-         v.v.

 

Ngoài Thúy Kiều có thể nói hầu hết các nhân vật trong Truyện Kiều ít nhiều đều sử dụng biểu tượng

trong lời nói của mình. Không phân biệt người sang hay kẻ hèn, người tốt hay kẻ xấu, dân thường hay quan lớn, ai nói Nguyễn Du cũng để cho sử dụng vài ba hình ảnh có tính biểu tượng. Kim Trọng khi thuyết phục Thúy Kiều nối lại duyên xưa, nói:

Chàng rằng :’ Gắn bó một lời

Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau “

Hay:     

Bấy lâu đáy bể mò kim

Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa

Thúy Vân giục chị tổ chức lại hôn lễ với Kim Trọng cũng nói:

Quả mai ba bảy đương vừa

Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì

Còn Vương bà trong buổi cả nhà tái ngộ đoàn viên, khóc than kể lể sự tình:

Từ con lưu lạc quê người

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm

 

Trong Truyện Kiều một trong những nhân vật nói nhiều và trong lời nói có dùng nhiều biểu tượng thiên nhiên là Thúc Sinh. Lúc định chuộc Kiều khỏi tay Tú Bà, Thúc Sinh đoan chắc với Kiều:

Đã gần chi có điều xa

Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều

 

Lúc lẻn ra Quan âm các gặp Kiều, phân bua, bộc bạch nỗi niềm từ khi gặp lại nhau trong cảnh éo le, Thúc Sinh nói một thôi dài:

Quản chi lên thác xuống ghềnh

Cũng toan sống thác với tình cho xong….

…..Thẹn mình đá nát vàng phai

Trăm thân dễ chuộc một lời được sao….

…….Dẫu rằng sông cạn đá mòn

Con tằm đến thác vẫn  còn vương

 

Một người tình khác của Thúy Kiều tuy nói ít nhưng cũng dùng biểu tượng, đó là Từ Hải:

Từ rằng :” Tâm phúc tương cờ

Phải người trăng gió vật vờ hay sao…..

……….Một đời được mấy anh hùng

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi

 

Các nhân vật khác như viên quan phủ, già Đô, bà quản gia nhà Hoạn Thư, mỗi người tuy chỉ nói vài câu nhưng cũng dùng các biểu tượng như trăng hoa / Trăng hoa song cũng thị phi biết điều – Quan phủ /, mây trôi bèo nổi / Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi – già Đô /, con ong cái kiến / Con ong cái kiến kêu gì được oan – quản gia  /. Đáng chú ý là không chỉ các nhân vật tử tế mà cả các nhân vật phản diện Nguyễn Du cũng để cho sử dụng các biểu tượng thiên nhiên trong lời thoại của mình. Hãy nghe Tú Bà khấn cho việc làm ăn của lầu xanh khi vừa rước Thúy Kiều về:

Muôn nghìn người thấy cũng yêu

Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai

Còn đây là lời Mã Giám Sinh tự nhủ với mình:

Đào tiên đã bén tay phàm

Thì vin cành quít cho cam sự đời

 

Hoạn Thư lúc  toan tính hại Kiều và trừng trị Thúc Sinh cũng tự nói thầm:

Lo gì việc ấy mà lo

Kiến trong miệng chén  có bò đi đâu

Còn khi gặp Thúc Sinh thì giả vờ nói:

Khen cho những miệng dông dài

Bướm ong lại đặt những lời nọ kia

 

Viêc hầu hết các nhân vật trong Truyện Kiều đều sử dụng biểu tượng thiên nhiên nếu xét về phương diện cá thể hóa tính cách theo quan niệm của tiểu thuyết hiện đại thì có vẻ như không ổn. Một tiểu thư như Thúy Kiều mà biết nói những câu như “ Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh’ hay “ Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này” thì cũng không hợp lí lắm. Tuy nhiên nếu căn cứ vào đặc điểm tư duy nghệ thuật thời ấy chúng ta có thể hiểu vì sao có hiện tượng như vậy. Thi pháp cổ điển đặt cơ sở trên những khuôn mẫu, những cách nói ít nhiều mang tính qui ước, ước lệ. Khi Nguyễn Du viết : Mai cốt cách, tuyết tinh thần // Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười , chắc ông cũng nghĩ theo cách mà Nguyễn Trãi cách đó mấy trăm năm cũng đã từng nghĩ khi viết bài Thơ Mai :

Càng thưở già, càng cốt cách

Một phen giá, một tinh thần

 

Biểu tượng là một trong những những hình thức mang tính qui ước ấy. Điều đó giải thích vì sao nó được sử dụng rộng rãi trong một truyện thơ còn nằm trong khuôn khổ của văn chương cổ điển.

Tuy nhiên về cơ bản việc sử dụng rộng rãi biểu tượng thiên nhiên trong Truyện Kiều nói lên tài năng của Nguyễn Du và đặc sắc của Truyện Kiều. Trong Chiêu hồn thập loại chúng sinh  Nguyễn Du chỉ có một câu duy nhất dùng biểu tượng :

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

 

Trong Truyện Kiều , như ở trên đã dẫn ra, biểu tượng thiên nhiên bắt gặp khắp các trang thơ. Các biểu tượng này vừa làm cho câu thơ Kiều dễ hiểu, gần với lời nói bình thường, vừa làm cho Truện Kiều mang đậm chất dân gian. Về điều này chúng tôi đã trình bày trong bài Chất dân gian trong Truyện Kiều  in trong cuốn Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa Nguyễn Du, kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb, ĐHQG TP HCM, 2015. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói thêm một chút về các biểu tượng song đôi kiểu như bèo hợp mây tan, ong qua bướm lại, cá nước chim trời, gió trúc mưa mai v.v. Cấu trúc của loại biểu tượng này tuân theo hình thức cân đối, nhịp nhàng, vì vậy ngoài giá trị về nghĩa nó còn mang lại chất nhạc cho âm điệu câu thơ. Có lẽ Nguyễn Du đã học cách cấu trúc này trong lời nói của người bình dân và nhất là trong những câu quan họ ở vùng Kinh Bắc quê mẹ cũng như những câu ví dặm, hát phường vải ở quê cha. Ca dao có rất nhiều câu được tổ chức theo hình thức này :

-         Tăm năm đá nát vàng phai

Lời nguyền với bạn nhớ hoài không quên

-         Kìa như sông cạn đá mòn

Con tằmđến chết vẫn còn vương

-         Một lòng chỉ quyết lấy anh

Ongbay bướm liệng xung quanh mặc Trời

Nhờ học cách tổ chức câu thơ theo hình thức sử dụng các biểu tượng song đôi, đồng thời nhào nặn, thay đổi chúng tùy  từng hoàn cảnh khác nhau như các trường hợp bèo, trúc mai phân tích ở trên, Nguyễn Du đã làm cho Truyện Kiều gần gũi với cách nói, cách nghĩ của người bình dân và đó cũng là một lí do giải thích vì sao Truyện Kiều dễ đọc, dễ thuộc, phổ biến rộng rãi trong dân gian.

Sự có mặt của các biểu tượng thiên nhiên với những hình thức khác nhau trong Truyện Kiều không chỉ nói lên đặc sắc nghệ thuật và chất dân gian của tác phẩm, mà xét về phương diện lịch sử văn học, nó còn cho thấy mối quan hệ giữa văn chương bác học và văn chương bình dân trong giai đoạn này. Cùng với Truyện Kiều, nhiều tác phẩm khác cũng sử dụng các từ ngữ, cách nói, các biểu tượng bắt gặp trong tục ngữ, ca dao. Ví dụ, trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều , tuy không nhiều nhưng chúng ta cũng thấy có những biểu tượng quen thuộc như  Đèo bòng, Nguyệt Hoa, Bướm Hoa :

-         Đa mang chi nữa đèo bòng

Vui gì thế sự mà mong nhân tình

-         Hoa này bướm nỡ thờ ơ

Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng

-         Hoàng hôn thôi lại hoàng hôn

Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa

Hay trong Hoa Tiên  của Nguyễn Huy Tự cũng vậy :

-         Một thề trao chịu hai tiên

Ghi lòng vàng đá, ghi nguyền tóc tơ

-         Này ai dập liễu vùi hương

Để ai nát đá phai vàng với ai

-         Duyên đâu ai lỡ mà lầm

Nhện vương, lại mấy phen lầm nữa đây

Những thí dụ trên chứng tỏ giữa văn chương bác học và văn chương bình dân đã có sự giao thoa nhất định. Sự giao thoa này không nên hiểu chỉ như quá trình các nhà thơ chính thống tiếp nhận ảnh hưởng của thơ ca trữ tình và sáng tác dân gian mà nên hiểu như sự tác động qua lại, giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau. Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp khó có thể nói văn chương bác học mượn của thơ ca dân gian hay thơ ca dân gian nhận được từ văn chương bác học. Thử lấy ví dụ trường hợp biểu tượng Mận Đào. Trong ca dao, biểu tượng này khá phổ biến :

-         Đêm qua mận mới hỏi đào

Vườn Xuân đã có ai vào hái hoa

-         Em như hoa mận hoa đào

Cái gì là ngãi tương giao hỡi nàng?

Truyện Kiều cũng có 2 lần Nguyễn Du sử dụng biểu tượng này :

-         Sớm đào tối mận lân la

Trước còn trăng gió sau ra đá vàng

-         Cho hay thục nữ chí cao

Phải người sớm mận tối đào như ai

Ở đây đúng như ý kiến của GS. Đinh Gia Khánh : “ Thực ra quả là khó mà xác đinh được rằng ở đây Truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian hay là thơ ca dân gian đã chịu ảnh hưởng của Truyện Kiều”( 4 ). Đó là chưa nói nếu xem xét rộng ra, chúng ta sẽ thấy đây không chỉ là quan hệ giữa Truyện Kiều và thơ ca dân gian mà còn có vai trò của truyền thống nữa. Trước Nguyễn Du bốn trăm năm, Nguyễn Trãi đã từng sử dụng nhiều lần biểu tượng Mận Đào:

-         Lẩn thẩn làm chi áng mận đào  / Mạn thuật  XIII  /

-         Cửa mận tường đào chân ngại chen  /Thuật hứng I /

-         Tườngđào ngõ mận ngại thung thăng t/ Mạn thuật I  /

-         Ngoài cửa mận đào là khách đỗ  / Tự thán XIII /

-         Ắt ngại lanh chanh áng mận đào  / Thuật hứng VII /

-         Đến trường đào mận ngặt chăng thông / Thuật hứng V /

Đó là chưa tính việc biểu tượng Mận Đào từ lâu đã có trong văn học Trung Hoa. Mối quan hệ giữa văn chương bác học và văn chương dân gian, giữa truyền thống và cách tân cũng như quan hệ tiếp biến giữa các nền văn hóa là những vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải xem xét cụ thể và có căn cứ khoa học.

Khảo sát biểu tượng thiên nhiên trong Truyện Kiều giúp chúng ta hiểu thêm nhiều điều về Nguyễn Du và tác phẩm. Nó cho thấy đặc sắc của Nguyễn Du trong việc tổ chức lời thơ, những yếu tố góp phần tạo nên chất dân gian của tác phẩm, đồng thời cũng cho thấy đặc điểm của tư duy nghệ thuật Trung đại thể hiện trong tính cân đối, ước lệ. Trong Truyện Kiều không chỉ có các biểu tượng thi6n nhiên mà còn có các biểu tượng khác. Thỉnh thoảng có thể bắt gặp những biểu tượng như đài gương /Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng /, thuyền / Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai /, tóc tơ / Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền /. Nhưng nhìn chung số lượng các biểu tượng loại này rất  ít. Đa số tuyệt đối vẫn là các biểu tượng thiên nhiên. Nhưng vì sao các biểu tượng thiên nhiên lại chiếm vị trí ưu thế trong Truyện Kiều và có lẽ cả trong thi ca nói chung, đó là câu hỏi thú vị đặt ra không chỉ đối với các nhà nghiên cứu văn học mà còn đối với cả các nhà Ký hiệu học, Nhân học văn hóa nói chung. / .

 

 

TƯ LIỆU TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO:

 

1.      Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Nxb. Thời Đại, 2012

2.      La Mai Thi Gia, So sánh nghĩa biểu trưng của cacx1 cặp biểu tượng sóng đôi trong ca dao và trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, trong sách Đại thi hao, Danh nhân văn hóa Nguyễn Du, Nxb. ĐHQG TP HCM, 2015

3.      Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính, Nguyễn Du – tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb. TP.HCM, 2000

4.      Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Duên, Lich sử văn học Việt Nam : Văn học dân gian, t.1, Nxb. ĐH và THCN, HN, 1972, tr. 291

5.      Nguyễn Xuân Kính – Phan Đăng Nhật, Kho tàng ca dao người Việt, Nxb. VH – TT, HN, 2001

6.      Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, Nxb. ĐHQG HN, 2007

7.      Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, 1969

8.      Rene Wellek & Austin Warren, Theory of Literature, Third Edition, London, 1977, p. 189

 

N.T.K.N

Gởi
Bài được đọc nhiều nhất
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 4
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 7
Chủ nhật

 
 
 
 
 
 
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30