Biểu tượng là một khái niệm được
sử dung rộng rãi trong nhiều ngành khoa học như Nhân học văn hóa, Ký hiệu học,
Thẩm mỹ học, Nghiên cứu văn học. Trong mỗi lĩnh vực khái niệm này có những
nghĩa cụ thể khác nhau, tuy nhiên nghĩa chung nhất vẫn là để chỉ một cái gì đó
đại diện cho một cái khác. Riêng trong lí luận văn học, biểu tượng thường được
hiểu như một loại hình tượng ước lệ, một dạng ký hiệu đặc biệt. Biểu tượng “là cái dùng để chỉ một cái khác nhưng cũng
là cái đòi hỏi phải chú ý tới chính bản thân nó như một sự tượng hình”(8 ). Nói một cách khác, biểu tượng có hai mặt: một mặt, đó là hình tượng mang nghĩa vốn có,
có cái được biểu đạt của mình, mặt khác, nó ám chỉ một cái khác không liên quan
gì đến nghĩa của cái được biểu đạt. “ Biểu
tượng là cái nhìn thấy được mang một ký hiệu dẫn ta đến cái không nhìn thấy được”(
6 ). Do tính chất ký hiệu của nó, biểu
tượng thường mang tinh quy ước, vì vậy để hiểu được một biểu tượng cần phải hiểu
được mã quy ước chi phối nghĩa của nó.
Biểu tượng thiên nhiên là những
hình ảnh về cây cỏ, hoa lá, cảnh, vật và hiện tượng thiên nhiên được dùng để ám
chỉ một cái khác chứ không phải để diễn tả bản thân hiện tương thiên nhiên ấy. Ở
đây cái biểu đạt ( signifier ) tức hình ảnh thiên nhiên, không nhằm hướng tới
cái được biểu đạt ( signified ) tức hiện tượng thiên nhiên mà nhằm diễn tả một
ý khác, thường là những ý mơ hồ, đa nghĩa, khó tóm tắt trong một vài chữ. Các
hình ảnh này được sử dụng lắp đi lắp lại nhiều lần trong một cộng đồng văn hóa,
nghĩa ám chỉ của chúng đã trở thành quy ước, quen thuộc. Biểu tượng thiên nhiên
được dùng khá phổ biến trong sáng tác văn học, nhất là thơ ca và Truyện Kiều là
một trường hợp khá tiêu biểu.
Biểu tượng thiên nhiên trong
Truyện Kiều rất phong phú và đa dạng. Có thể chia các biểu tượng này thành 4
nhóm:
1.Biểu
tượng về cây cỏ, hoa quả, ví dụ:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Hay:
Trướng tô giáp mặt hoa
đào
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa
2.Biểu
tượng về động vật, ví dụ :
Sợ khi ong bướm đãi đằng
Đến điều sống nhục sao bằng thác trong
3.Biểu
tượng về cảnh, vật thiên nhiên, ví dụ :
Quản chi lên thác xuống ghềnh
Cũng toan sống
thác với tình cho xong
Hay:
Đã gần chi có điều xa
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều
4.Biểu tượng về
các hiện tượng tự nhiên, ví dụ :
Bấy chầy gió táp
mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Hay:
Mây
mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Trong
Truyện Kiều các biểu tượng thiên nhiên cũng có nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc
vào hình thức kết cấu của biểu tượng. Sau đây là một số dạng chính :
Biểu tượng đơn là những biểu tượng được cấu tạo bằng một
hay hai từ, chỉ một cảnh, vật hay hiện tượng tự nhiên duy nhất, ví dụ biểu tượngbèo và đào tiên trong các câu :
Tiện đây xin một
hai điều
Đài gương soi đến
dấu bèo cho chăng
Hay:
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành
quít cho cam sự đời
Những
biểu tượng đơn thường gặp trong Truyện Kiều là : hoa, bèo, bèo bọt, cúc, mai, trúc,, liễu, đào tiên, đào non, cát đằng, con ong, con kiến
Biểu tượng kép là những biểu tượng được cấu tạo từ hai từ,
chỉ hai cảnh, vật hay hiện tượng thiên nhiên khác nhau, ví dụ:
Tái sinh chưa dứt
hương thề
Làm thân trâu ngựa
đền nghì trúc mai
Trúc và Mai là hai loại cây khác nhau. Những biểu tượng
kép thường gặp trong Truyện Kiều là : ong
bướm, phượng loan, yến anh, rồng phượng, đá vàng, nước non, đào mận, trăng gió,
trăng hoa, nguệt hoa, mây mưa
Biểu tượng song đôi là những biểu tượng được tổ hợp từ những
biểu tượng kép thành những biểu tượng có ý nghĩa gần gũi và có cấu trúc cân đối.
Ví dụ:
Rồi đây bèo hợp mây tan
Biết đâu hạc nội
mây ngàn là đâu
Hay :
Nghĩ điều trời
thẳm vực sâu
Bóng
chim tăm cá biết đâu mà
nhìn
Những
biểu tượng song đội thường gặp trong Truyện Kiều là : bèo hợp mây tan, bèo nổi mây chìm, hoa trôi bèo dạt, miệng hùm nọc rắn,
chim lồng cá chậu, bóng chim tăm cá, sớm đào tối mận, lên thác xuống ghềnh, ong
qua bướm lại, bướm lả ong lơi, gió trúc mưa mai
Biểu tượng biến thể là những biểu tượng cũng phái sinh từ những
biểu tượng kép nhưng nghĩa đã khác xa và không tạo thành những tổ hợp vuông vức,
cân đối như biểu tượng song đôi. Ví dụ:
Từ khi đá biết tuổi vàng
Tình càng thấm
thía dạ càng ngẩn ngơ
Hay :
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng
Trong
những câu thơ trên đá vàng, rồng phượng vốn
là những biểu tượng kép có ý nghĩa xác định
nhưng đã được thay đổi, giãn ra và chỉ mang ý nghĩa tương tự hoặc khác hẳn.
Trong Truyện Kiều bắt gặp không ít những trường hợp như vậy ( Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng // Contằm đến thác cũng còn vương tơ // Mấy trăng cũng khuyết mấy hoacũng tàn…)
Truyện
Kiều là một tuyệt phẩm về thơ ca. Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều không chỉ
thể hiện ở sự phong phú và đa dạng của các biểu tượng mà còn ở cách nhà thơ sử
dụng các biểu tượng ấy để diễn tả những tình ý và tình huống cụ thể. Trong mỗi
trường hợp biểu tượng lại biến đổi, mang sắc thái mới, đem lại một nghĩa mới.
Nguyễn
Du không ngại dùng những biểu tượng quen thuộc trong văn chương bác học như : trúc mai, loan phượng, yến anh ( oanh ) , cúc,
liễu, mận đào. Tuy nhiên số lượng biểu tượng loại này không nhiều và khi
dùng Nguyễn Du cũng không câu nệ vào việc rập khuôn các công thức cũ. Lấy ví dụ
biểu tượng trúc mai. Chúng ta đều biết
biểu tượng trúc mai rất thường được
dùng trong văn chương cổ điển. Trong Quốc
âm thi tập Nguyễn Trãi nhiều lần sử dụng biểu tượng Trúc Mai :
Trúc mai bạn cũ họp nhau quen
Cửa mận tường
đào chân ngại chen ( Thuật hứng, I )
Án sách cây đèn
hai bạn cũ
Song mai hiên trúc một lòng thanh ( Ngôn chí, VI )
Bạn cũ thiếu đâu
đèn liễu sách
Tính quen chẳng
kém trúc cùng mai ( Ngôn
chí, XII )
Trúc
mai chẳng phụ lòng quân
tử
Viên hạc đà quen
bạn dật dân ( Thuật hứng, XV )
Rủ vượn hạc xin
phương giải tục
Quyến mai trúc kết bạn tri âm (Tự thuật, VIII )
Chúng
ta đều biết trong văn học cổ, mai trúc
tượng trưng cho sự trong sạch và cứng cáp
Thanh quí bằng mai ít kẻ tày
Hình dung mạc được
lạ lùng thay
( Họa
mai – Hồng Đức quốc âm thi tập )
Bản
thân Nguyễn Trãi cũng có những bài thơ
nói lên phẩm chất thanh cao, tiết cứng của Mai, Trúc:
Xuân đến nào hoa
chẳng tốt tươi
Ưa mày vì tiết sạch
hơn người ( Mai )
Huống lại nhưng
nhưng chẳng bén tục
Trượng phu tiết
cứng khác người thay ( Trúc )
Nhưng
trong các câu thơ trong Quôc âm thi tập dẫn
ra ở trên chúng ta thấy Trúc Mai được
dùng như một biểu tượng kép và ý nghĩa chung của biểu tượng này là để chỉ sự gần
gũi, thân thuộc, có đôi có cặp. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã dùng biểu
tượng này với nghĩa ấy:
Một nhà sum họp trúc mai
Cáng sâu nghĩa bể
càng dài tình sông
Tuy
nhiên trong 6 lần xuất hiện chỉ 1 lần biểu tượng Trúc Mai ám chỉ sự bầu bạn,
đoàn viên như trong câu thơ trên, còn 5 lân khác biểu tượng này được Nguyên Du dùng với ý
nghĩa đã thay đổi. Trường hợp thứ nhất
là khi Trúc Mai được dùng với sắc thái tiêu cực, để chi những quan hệ huê tình
liên quan đến cuộc sống của Thúy Kiều trong những ngày ở lầu xanh:
Muôn nghìn người
thấy cũng yêu
Xôn xao anh yến
dập dìu trúc mai
Và
Thờ ơ gió trúc mưa mai
Ngẩn ngơ trăm mối
dùi mài một thân
Trường hợp thứ hai là khi Trúc
Mai trở thành tượng trưng cho sự gắn bó keo sơn vượt lên mức tri âm, bạn bè, trở
thành quan hệ tình yêu nam nữ, thậm chí là tình cảm vợ chồng. Trong Truyện Kiều
có 3 lần Trúc Mai được dùng theo nghĩa này . Hai lần là lời Thúy Kiều khóc than
vì không đền đáp được mối tình với Kim Trọng :
Tái sinh chưa dứt
hương thề
Làm thân trâu ngựa
đền nghì trúc mai
Và
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu
đên nghì trúc mai
Và
Chắc rằng mai trúc lại vầy
Ai hay vĩnh quyết
là ngày đưa nhau
Cách sử dụng biểu tượng Trúc Mai theo
nghĩa này rõ ràng rất gần với thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao có nhiều câu dùng
Trúc Mai với ý tương tự:
Hôm
nay sum họp trúc mai
Tình
chung một khắc, nghĩa dài trăm năm
Hay:
Ai đi đường nấy hỡi ai
Hay
là trúc đã nhớ mai đi tìm
Như vậy chúng ta thấy chỉ trong trường hợp
Trúc Mai, cách ứng xử của Nguyễn Du đã rất linh hoạt. Có khi nhà thơ dùng Trúc
Mai như một biểu tượng kép thuận ( Trúc
Mai ) hay kép ngược ( Mai Trúc ), có
khi ông biến đổi biểu tượng kép thuận thành biểu tượng song đôi ( gió Trúc mưa Mai ). Có khi biểu tượng ám
chỉ sự đoàn viên, có khi lại mang nghĩa
tình duyên nam nữ, vợ chồng. Đáng kể
nhất
là khi nhà thơ không ngại sử dụng biểu tượng này với sắc thái tiêu cực ( Thờ ơ gió trúc mưa mai// Xôn xao anh yến dập
dìu trúc mai ). Đây là cách sử dụng biểu tượng Trúc Mai chưa từng gặp trong
văn học trước đó cũng như trong ca dao.
Trúc
Mai không phải là trường hợp duy nhất thể hiện sáng tạo của Nguyễn Du trong
cách dùng các biểu tượng thiên nhiên trong Truyện Kiều. Thử lấy thêm một ví dụ
khác.
Trong Truyện Kiều bèo, bèo bọt,bèo hợp mây tan là những biểu tượng rất thường gặp. Có 14 lần các biểu tượng này xuất hiện trong
tác phẩm với những hình thức khác nhau. Biểu tượng bèo băt gặp duy nhất một lần trong câu nói với ý khiêm tốn của Kim
Trọng với Thúy Kiều trong buổi đầu gặp nhau:
Tiện đây xin một hai điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng
Nguyễn Trãi cũng đã từng
dùng Bèo như một biểu tượng:
Tưởng
thân hư ảo nổi bằng bèo
Chí cũ công danh vuỗn lỡ keo ( Mạn
thuật. X )
Ca dao cũng có câu :
Kiếp đói nghèo phận bèo trôi nổi
Hầu hạ người em tội tình chi
Nhưng trong thơ Nguyễn Trãi và trong ca
dao Bèo chỉ sự trôi nổi, dập dềnh, còn trong câu nói của Kim Trọng, Bèo ám chỉ sự thấp bé, hèn kém. Chính với
nghĩa này trong Truyện Kiều còn có thêm một biểu tượng nữa là bèo bọt hay bọt bèo. Đó là những trường hợp khi Thúy Kiều nói về mình với Sở
Khanh:
Răng tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Và với Từ Hải :
Rộng thương cỏ nội hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Cũng như khi Thúc Sinh giới thiệu thân phận
Thúy Kiều với quan phủ:
Sinh rằng : “ Chút phận bọt bèo
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên “
Dùng hình ảnh Bọt bèo để chỉ thân phận thấp bé của người phụ nữ rơi vào
hoàn cảnh không may cũng có thể xem là sáng tạo của Nguyễn Du, bởi vì điều này
rất hiếm gặp không chỉ trong văn chương bác học mà cả trong ca dao.
Đáng chú ý là những trường hợp khi Nguyễn Du cũng sử dụng những biểu tượng quen thuộc nhưng luôn luôn biến đổi, nhào nặn, làm cho biểu tượng mang những hình thức khác nhau, với những sắc thái khác nhau.Bèo là một ví dụ. Như ở trên đã nói, trong thơ ca hình ảnh Bèo thường được tượng trưng cho sự lênh đênh, trôi nổi, bấp bênh, không yên ổn, ổn định. Từ nghĩa này đã hình thành motif bèo dạt mây trôi rất phổ biến trong thơ ca dân gian, trong câu ca quan họ. Kiểu biểu tượng song đôi này thường được Nguyễn Du biến cải thành những dạng khác nhau, nhiều lần bắt gặp trong Truyện Kiều.
(Còn tiếp)
N.T.K.N