BẢN TÓM TẮT:
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo phổ thông,
trước hết hết phải nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Muốn nâng cao chất lượng
người thầy khâu quan trọng nhất phải cải tiến là các trường sư phạm. Hiện nay
chương trình và và phương thức đào tạo giáo viện ở nước ta nhìn chung còn cũ.
Chương trình đào tạo chưa chú trọng bồi dưỡng cho sinh viên sư phạm một vốn văn
hóa chung, tư duy giáo dục, năng lực và kỹ năng sư phạm cũng như một nền tảng đạo
đức của việc làm thầy. Đào tạo sư phạm hiện nay không đủ tập trung vào việc chuẩn
bị cho sinh viên nghề đi dạy mà hướng vào việc tạo điều kiện cho họ khi ra trường
có thể làm bất cứ công việc gì. Nôi dung giảng dạy các môn chuyên môn ở các trường
sư phạm bởi vậy không khác gì mấy so với các trường Khoa học tự nhiên và Khoa học
xã hội khác. Điều này rõ ràng gây khó khăn cho sinh viên khi về giảng dạy ở trường
phổ thông. Sự không liên thông ở một mức độ nhất đinh giữa nội dung đào tạo của
các trường sư phạm và các trường phổ thông là một vấn đề cần được xem xét và thảo
luận.
Từ khóa : Đào tạo, giáo viên, trường
sư phạm, chương trình, phổ thông, văn hóa chung, năng lực sư phạm, tư duy uy
giáo dục, đạo đức làm thầy
Toàn cầu hóa và cách mạng 4.0 đã làm
thay đổi nhiều thứ và đang đặt ra cho xã hội nói chung và giáo dục nói riêng
nhiều vấn đề mới. Trước hết là nó bắt chúng ta phải nhìn lại mình, đánh giá lại
thực trạng và so sánh những gì đạt được, những gì đang diễn ra với yêu cầu của
cái cần đạt được và nhất là yêu cầu của thế giới đang thay đổi. Trong lĩnh vực
giáo dục, nhiều bài toán đang đặt ra cho những người quản lý, những người đi dạy. Một trong số những vấn đề ấy là vấn đề
nâng cao chất lượng người thầy.
Chúng ta đều biết người thầy là cốt
lõi của hoạt động giáo dục. Mọi nỗ lực của công tác giáo dục cuối cùng đều tập
trung ở khâu giáo viên. Chủ trương cho dù hay đến mấy nếu không được những ngưới
trực tiếp đứng lớp, trực tiếp làm việc với học sinh chia sẻ, quán triệt và thực
thi, thì đều không có tác dụng. Vấn đề vai trò người thầy càng trở nên cấp bách
khi những hiện tượng tiêu cực liên quan đến trình độ, tư cách và phẩm giá của
người giáo viên liên tiếp xảy ra gần đây
làm xôn xao dư luận xã hội đã làm lộ rõ hơn những khiếm khuyết, bất cập trong
công tác đào tạo giáo viên, trong chương trình, nội dung và phương pháp huấn
luyện của các trường sư phạm. Trong bối cảnh đó việc nhìn nhận lại và đổi mới hoạt động đào tạo giáo viên ở các trường sư
phạm là một yêu cầu cấp thiết.
Một trong những thiếu sót dễ nhận thấy đầu
tiên là suốt trong một thời gian dài công
tác đào tạo giáo viên tiểu học đã
không được coi trọng đúng mức. Chúng ta có thể kể ra những lí do khách quan như
do không có ngân sách, do thiếu cơ sở vật
chất, do quy mô đào tạo của các trường đại học sư phạm v.v. Nhưng không thể không thừa nhận rằng nguyên nhân hết
sức cơ bản là do nhận thức. Mọi người thường nghĩ rằng dạy tiểu hoc thì dễ hơn dạy trung học phổ
thông, đào tạo giáo viên cấp ba khó hơn giáo viên tiểu học, cấp ba quan trọng
hơn cấp một. Từ đây mới nảy sinh ra các loại trường 7+1, 7+2 và 10+1, 10+2,
nghĩa là học sinh phổ thông học xong lớp 7 chỉ cần học thêm 1 hoặc 2 năm là có
thể đi dạy Tiểu học. Các trường sư phạm sơ cấp, sư phạm trung cấp ra đời cũng
trong hoàn cảnh và với nhân thức ấy.
Thực ra xét về nhiều phương diện, Tiểu học
là bậc học hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Quá trinh
hình thành nhân cách và nhận thức của trẻ em bắt đầu từ đây. Việc giáo dục trẻ
em ở lứa tuổi này đòi hỏi không phải chỉ cách tiếp cận lý trí, khuôn mẫu trong
việc giảng giải kiến thức, giáo dục đạo đức, hướng dẫn cách sống,cách làm mà yêu
cầu một cách tư duy, cách ứng xử không hoàn toàn theo kiểu người lớn, ngược lại
nhiều khi phá chuẩn, nhưng lại gần gũi, phù hợp với tâm sinh lí của trẻ em. Vì
vậy có thể nói dạy Tiểu học cho tốt là rất khó. Giáo sư Hồ Ngọc Đại đã bỏ nhiều
thứ,dành cả cuộc đời cho việc nghiên cứu và dạy Tiểu học mà cũng vẫn thấy còn
nhiều vấn đề khó khăn, chưa thể hài lòng. Do tính chất của bậc Tiểu học như vậy
nên việc đào tạo giáo viên cho bậc học này cũng đòi hỏi những nhận thức, quan niệm khác. Ở Hàn Quốc,
các trường Đại học sư phạm ( tất cả đều là đại học công lập ) đều tập trung đào
tạo giáo viên Tiểu học với chương trình 4 năm và cấp bằng cử nhân. Giáo viên
THCS và THPT sẽ được đào tạo ở các trường/ khoa Giáo dục trong các đại học đa
ngành . Đào tạo giáo viên Tiểu học theo
hình thức học chính quy 4-5 năm ở các trường đại học là xu hướng chung của các
quốc gia trên thế giới.
Một điểm bất cập khác trong đào tạo sư phạm là
nhìn chung vẫn còn tình trạng chú trọng
bồi dưỡng người thầy có kiến thức hơn người thầy với tư cách là nhà giáo dục,
nhà sư phạm.
Hiện nay nhìn vào trang Web của các
trường sư phạm người ta vẫn thấy giới thiệu bên cạnh Ban Giám hiệu và các phòng
ban là các khoa Ngữ văn, khoa Toán, khoa
Lý, khoa Hóa, khoa Sinh, khoa Sử, khoa Địa v.v. Điều này không khác gì các khoa
ở trường đại học Khoa học tự nhiên và đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Trong khi đó nếu chịu khó lướt qua trang Web của các trường đại học sư phạm của Nhật bản, Hàn Quốc, Australia và nhiều nước khác chúng ta sẽ thấy họ không ghi : Faculty/
Department of Mathematics mà là: Faculty/
Department of Mathematics Education hay Faculty/ Department of History
Education v.v. Nghĩa là đây không phải là các khoa Toán hay khoa Lịch sử mà
là các Khoa sư phạm Toán hay Khoa sư phạm
Lịch sử.v.v. Khác nhau ở đây không phải chỉ là tên gọi. Nó phản ánh một
quan niệm cho rằng các khoa của trường
ĐHSP chủ yếu vẫn là nơi đào tạo khoa học cơ bản ( Toán, Lí, Hóa, Văn Sử, Địa ),còn
nội dung sư phạm giao cho các bộ môn Tâm lí- Giáo dục, Phương pháp giảng dạy thực
hiện.
Điều này dẫn đến một số hiện tượng mà chúng ta thường bắt gặp trong thời gian
qua. Thứ nhất, chương trình đào tạo giáo viên ở trường sư phạm không gắn với
chương trình dạy và học ở phổ thông. Sinh viên sư phạm không được chuẩn bị đầy
đủ, không nhận được sự hỗ trợ trực tiếp trong việc xử lí những khó khăn gặp phải
trong quá trình giảng dạy. Chẳng hạn, nhiều sinh viên khoa Văn cảm thấy những
kiến thức được trang bị ở đại học giúp họ trở thành nhà nghiên cứu hay phê bình
văn học nhiều hơn là để làm thầy giáo dạy
Văn ở phổ thông. Cũng do tình trạng này mà không ít giáo viên khi soạn giáo án
hay giảng dạy đã sử dụng trực tiếp những bài giảng của các thầy ở đại học để dạy
cho học sinh của mình. Kết quả là kiến thức và chương trình ở phổ thông mà lại
mang dáng dấp nội dung kiến thức của đại học. Học sinh kêu khó và không hấp dẫn
cũng là điều dễ hiểu.
Thứ hai, những thay đổi thường xuyên trong chương trình phổ thông đã không được phản
ánh trong chương trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. Xảy ra một quy
trình ngược : đáng lẽ các trường sư phạm là trung tâm đổi mới, thực hiện chủ trương đổi mới từ Bộ GD-ĐT, đào tạo
đội ngũ giáo viên mang tinh thần và kiến thức đổi mới việc dạy và học, thì trong thực tế các trường sư phạm thường rơi
vào tình thế bị động, hoặc không phản ứng kịp, hoặc phải chạy theo, điều chỉnh
chương trình của mình cho sát với chương trình của giáo dục phổ thông. Đây là một
thách thức lớn đối với các trường sư phạm, một thực tế cần phải xem xét và nhanh chóng khắc phục.
Để thực hiện nhiệm vụ cải cách đào tạo
sư phạm và nâng cao chất lượng giáo viên, theo chúng tôi, việc đổi mới nội dung đào tạo giáo viên của
các trường đại học sư phạm có vai trò hết
sức quan trọng. Xin nêu lên một số vấn đề cụ thể dưới đây.
1. Bồi
dưỡng cho giáo viên về văn hóa chung.
Giáo viên
không chỉ là người đi dạy, người truyền đạt kiến thức mà thường được coi như người thầy. Phẩm chất quan trọng nhất của
người thầy là tấm gương đạo đức tốt đẹp và sự minh triết. Trẻ em thường nhìn
người thầy như người có thể biết tất cả, giải đáp được mọi thứ, thầy giáo bao
giờ cũng đúng. Với chúng cha mẹ có thể sai nhưng thầy giáo bao giờ cũng đúng.
Đó là một thách thức rất lớn đối với thầy giáo vì thực tế là không ai có thể biết tất cả mợi thứ cũng như có thể trả lời mọi câu hỏi của trẻ.
Trong nhiều trường hợp người thầy có thể dùng uy quyền của mình để hạn chế những câu hỏi nêu ra hoặc áp đặt học
sinh thỏa mãn với những câu trả lời của mình. Nhưng cách làm ấy sẽ đưa tới những
kết quả vô cùng tai hại cho sự phát triển về nhận thức và đời sống tinh thần của trẻ.
Để khắc phục tình trạng này là bên cạnh việc
trang bị những kiến thức chuyên ngành, những kiến thức về giáo dục học và
phương pháp giảng dạy, cần giúp sinh viên sư phạm có một “phông” văn hóa cần thiết thông qua việc tổ chức giảng dạy hiệu quả các
môn Giáo dục tổng quát ( hay thường goi là các môn Giáo dục đại cương- Liberal
Arts ) cũng như dạy một số chuyên đề bắt
buộc hay tự chọn về khoa học xã hội- nhân văn và nghệ thuật. Phải thừa nhận một
thực tế là ở nước ta nhiều năm qua chương trình Giáo dục đại cương ở đại học đã được hiểu không thật chính
xác và từ đó việc giảng dạy chương trình này đã không đạt đươc kết quả mong muốn.
Không ít người chỉ hiểu đơn giản rằng giảng dạy các môn trong chương trình Giáo dục đại cương là nhằm
cung cấp cho sinh viên một số kiến thức sơ lược, có tính chất đại cương về một
số môn chung như Xã hội học, Tâm lí học mà không nhận thức đầy đủ lí do tại
sao lại có một chương trình giảng dạy được gọi là Giáo dục đại cương ở các đại
học và mục tiêu của nó là gì. Thực ra mục
tiêu của chương trình giáo duc đại cương chính là muốn mở rộng tầm văn hóa của
sinh viên đại học, muốn họ phải có một tầm
nhìn rộng hơn, không bị hạn chế
trong các kiến thức chuyên ngành, các
chuyên môn sâu, nhất lá đối với các lĩnh vực kỹ thuât và khoa học tự nhiên. Theo
đó mỗi sinh viên sư phạm không chỉ là người có kiến thức khoa học, có phương
pháp sư phạm mà còn là người có vốn văn
hóa, nhãn quan văn hóa, từ đó phấn đấu trở thành người có văn hóa .
Có văn hóa còn khó hơn có chữ, có học. Muốn
làm thầy thì cốt nhất là phải có văn hóa. Văn hóa của người thầy là cốt lõi của
văn hóa nhà trường, có tác động lớn đến việc giáo dục giá trị và hình thành
nhân cách của trẻ em, ảnh hưởng đến văn hóa của học sinh. Trẻ em là một đối tượng
hết sức thú vị nhưng cũng rất phức tạp, đa dạng.Không có cẩm nang giáo dục nào
có thể mách bảo, chỉ dẫn cho thầy giáo cách xử lí tất cả các tình huống có thể
xảy ra khi đứng trước học sinh, trước một tình huống cụ thể. Thực tế cho thấy trong
rất nhiều hiện tượng tiêu cực gắn với nhà trường xảy ra thời gian gần đây, những
sai phạm của học sinh cũng như của thầy
cô giáo , của phụ huynh học sinh hầu hết đều chứng tỏ có sự sai sót, thiếu hụt đáng báo động về ứng xử văn hóa, về văn hóa nói chung.
2. Chú trọng phát triển tư duy giáo dục
Đây có lẽ cũng là một việc mà nhiều trường sư
phạm thời gian qua đã không quan tâm đầy đủ. Ngoài những bài giảng về Giáo dục
học và Tâm lí hoc, về Phương pháp giảng dạy bộ môn, sinh viện không được trang
bị những kiến thức về Lịch sử các học
thuyết giáo dục, các quan niệm khác nhau về giáo dục và đặc biệt là về Triết lí
giáo dục. Muốn làm giáo dục thì công việc đầu tiên là phải hiểu bản chất của
giáo dục, tính chất của hoạt động giáo dục đang được tiến hành. Đó là chìa
khóa, là cái bao quát nhất mà người thầy giáo phải nắm được trước khi thực hiện
những nhiệm vụ, công việc cụ thể. Hiểu được triết lí giáo dục chung, người thầy
sẽ tự có những cách giải quyết, ứng xử thích hợp trong từng tình huống sư phạm
khác nhau, Chẳng hạn, nếu quan niệm học là hạnh phúc, hạnh phúc với người có
con em được đi học, hạnh phúc với đứa trẻ được cắp sách tới trường, hạnh phúc với
quốc gia có nhiều người đi hoc, có dân trí cao, có nguồn nhân lực có văn hóa, thì
người thầy giáo sẽ nhận thức đầy đủ hơn trách nhiệm của mình trong việc chăm lo
cho mỗi đứa trẻ, sẽ không áp đặt, trừng phạt mà tạo điều kiện để các em được tự
do phát huy hết khả năng, sở thích của
mình, sẽ làm cho mỗi giờ học cũng vui và hứng thú như khi chơi, sẽ làm cho học
sinh cảm thấy đi học thật là hạnh phúc.Và khi trẻ em thấy học tập không phải là
cái gì bị ép buộc từ bên ngoài mà là niềm vui từ bên trong mình thì các em sẽ tự
giác, tự nguyện học, từ đó thực hiện được một yêu cầu khó khăn nhưng cũng vô
cùng quan trọng của việc học – đó là tự học. Phát triển tư duy giáo dục cùng với
bồi dưỡng vốn văn hóa cho sinh viên sư phạm đều nhằm một mục đích chung là mở rộng tầm nhìn của người giáo viên tương
lai, để họ không bị hạn chế trong việc nắm kiến thức chuyên môn và những bài học
sư phạm khuôn mẫu. Điều đó sẽ góp phần tạo điều kiện để người giáo viên thực hiện
đúng sứ mạng của mình, xứng đáng là người Thầy.
3. Chú trọng năng lực sư phạm bên cạnh kiến thức chuyên môn.
Như đã nói ở
trên, nhìn chung trong việc đào tạo giáo viên hiện nay, phần kiến thức của các môn học thường được coi trọng hơn phần
năng lực sư phạm và trong phần sư phạm thì năng lực giảng dạy được chú ý nhiều hơn
năng lực giáo dục. Điều này sẽ có nguy cơ dẫn đến tình trạng giáo viên ra trường
sẽ mạnh về phương pháp lên lớp, về giảng
dạy hơn là phương pháp giáo dục, rèn luyện lối sống, nhân cách cho học sinh và
kết quả rất có thể là nhà trường sẽ có
thành tích, điểm số thi cử cao nhưng chất
lượng giáo dục giá trị, rèn luyện tư cách, đạo đức cho học sinh thì thấp hoặc
không như mong muốn.
Trường sư phạm
cần chuẩn bị cho sinh viên ngay từ khi ở
trường đại học đã biết quan tâm sâu sắc đến cách làm sao để trở thành không phải
một người người hành nghề, một người thợ dạy mà là một nhà giáo với đúng nghĩa
của nó, tức là một người ngoài việc truyền
thụ kiến thức trong sách giáo khoa, còn là người biết cách hướng dẫn trẻ em biết nhìn nhận và tiếp thu những giá trị tốt đẹp, biết cách gần gũi, thông cảm và giúp
chúng vượt qua những tình huống khó khăn trong cuộc sống , biết chia sẻ và động
viên chúng thực hiện những mơ ước của mình.
Hiện nay một trong những định hướng lớn của ngànhi
giáo dục là chuyển từ cách dạy theo lối nặng về truyền thụ kiến thức sang cách
dạy chú trọng đến phát triển năng lực của học sinh. Thiết nghĩ chủ trương này không chỉ đúng với giáo dục phổ
thông mà còn đúng cả với giáo dục sư phạm.
Các trường sư phạm, dù cao đẳng hay đại học, khác các trường đại học khoa học
xã hội- nhân văn hay trường đại học khoa học tư nhiên, đều là những trường dạy
nghề- nghề giáo dục, nghề làm thầy. Bởi vậy sinh viên sư phạm không những phải
nắm vững kiến thức chuyên môn khoa học mà còn phải được bồi dưỡng về năng lực nghề,
tức năng lực sư phạm, kỹ năng giảng dạy và kỹ năng giáo dục. Thực tế cho thấy
nhiều giáo viên chỉ có hiểu biết về chuyên môn nhưng chưa có kỹ năng giảng dạy
tốt. Nhiều người chưa nhận thức đầy đủ rằng trong việc giảng dạy kiến thức cho học
sinh, cái cốt lõi không phải là truyền đạt cho hết nội dung của bài giảng mà là
mức hiểu và tiếp thu của học sinh đối với những kiến thức do thầy truyền đạt
trên lớp. Nói và nói cho người khác hiểu là hai trình độ khác nhau. Để làm cho
người khác hiểu được điều mình nói, đòi hỏi sự hiểu biết phải sâu sắc và cách
nói phải thích hợp. Đó chính là vấn đề năng lực và kỹ năng giảng dạy.
Nhưng năng lực sư phạm không chỉ là năng lực
giảng dạy. Đấy còn là năng lực giáo dục giá trị, năng lực giúp học sinh vượt qua những thách thức, những
tình huống khó khăn, bồi dưỡng cho trẻ em về đạo đức, nhân cách. Về một phương diện nào đó, có thể nói đây là yêu
cầu rất cao với người chọn nghề làm thầy.
Nó đòi hỏi người giáo viên không chỉ là người đứng ngoài, người truyên đạt tri
thức từ bên ngoài, mà phải là người SỐNG
và YÊU THƯƠNGi học sinh của mình, phải là người trong cuộc đối với những gì
xảy ra trong lớp học, xảy ra đối với từng đứa trẻ. Năng lực này trong một mức độ nào đó mang
tính bẩm sinh cao. Nhưng trong một mức độ nhất định nó cũng có thể được đào luyện,
vun bồi, trước hết là đối với những kỹ năng cụ thể.
Kinh nghiệm cho thấy để gần gũi,thu hút được học
sinh, từ đó có điều kiện hướng dẫn chúng trong học tập và rèn luyện, việc thầy
cô giáo có được những kỹ năng sư phạm và những “ kỹ năng mềm “ là rất cần thiết. Khả năng biết cách giao tiếp, biết đàn
hát, biết chơi thể thao, biết nấu nướng ngon, biết kể chuyện ,biết khôi hài.v.v. giúp thầy cô giáo rất nhiều trong
công tác giáo dục, rút ngắn khoảng cách giữa thầy cô và trò, nhờ đó mọi thao tác giáo dục sẽ dễ dàng hơn và nhanh chóng đi đến kêt quả. Để có được
những kỹ năng ấy mỗi giáo viên phải nỗ lực, tự rèn luyện một phần, nhưng phần khác đó là trách nhiệm của trường sư phạm.
Chương trình đào tạo của trường sư phạm cần có những học phần hay môn tự chọn với
nội dung phát triển năng lực và các kỹ năng giáo dục cho sinh viên. Sinh viên
sư phạm phải được học và khuyến khích tự rèn luyện để có được những kỹ năng cần
thiết đối với người làm công tác giáo dục tương lai.
Để tạo điều
kiện giúp sinh viên nâng cao năng lực sư phạm, việc xây dựng hệ thống các trường
phổ thông thực hành nằm trong khuôn khổ trường đại học là một yêu cầu bắt buộc. Nhờ có các trường thực
hành, sinh viên sư phạm sẽ có thể tiếp xúc với thưc tiễn giáo dục mầm non hay phổ thông ngay từ khi đang học ở trường, có thể dẽ dàng
quan sát cách dạy và cách học của các giáo viên và học sinh và so sánh với những
lí thuyết giáo dục được giảng dạy trên giảng đường. Hiện nay việc kết hợp giữa trường đại học
và doanh nghiệp đang được khuyến khích rộng
rãi, thể hiện nỗ lực muốn rút ngắn khoảng cách giữa học với hành, giữa đào tạo
và sử dụng. Hình thành hệ thống trường
thực hành trong trường sư phạm và khai thác có hiệu quả sự tồn tại của hệ thống
ấy chính là một yêu cầu đổi mới hoạt động của trường sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên sư phạm.
4. Chú
trọng giáo dục đạo đức cho người làm thầy.
Những hiện tượng tiêu cực xảy ra gần đây trong
hàng ngũ giáo viên và những người làm công tác quản lí giáo dục ở các cấp một lần
nữa đã đặt ra vấn đề đạo đức của chính những người làm công tác giáo dục cũng
như sự cần thiết của việc bồi dưỡng đạo đức cho sinh viên sư phạm, những người
được đào tạo để làm thầy. Cố Giáo sư Ngô Gia Hy, một bác sỹ nổi tiếng, một nhà
giáo tâm huyết, đã từng nêu vấn đề giảng dạy Y đức trong các trường đại học
Y-Dược. Thiết nghĩ đó cũng là gợi ý cho
các trường sư phạm. Chữa bệnh cho con người và giáo dục con người cả hai đều cần không chỉ cái trí mà cả cái tâm, nhất là
với người làm thầy. Thầy thuốc và thầy giáo, cả hai đều được gọi là Thầy, được xem như bậc Cha Mẹ ( Lương y như từ mẫu ),cái Tâm hết sức quan trọng. Nhưng cái Tâm và cái Đức cũng có chỗ khác nhau. Nếu cái Tâm là tấm lòng với người khác, thì
cái Đức là phẩm chất của chính bản thân mình. Với người làm thầy giáo cả cái
Tâm và cái Đức đều cần như nhau. Không có tấm lòng yêu thương, coi trọng học
sinh làm sao có thể dạy dõ để các em trở thành những người hiểu biết, những
công dân tốt. Không có đạo đức tốt làm sao người thầy có thể làm tấm gương tốt
để các em noi theo. Chúng ta đều biết đối với trẻ em giáo dục theo hình thức noi gương là phương thức
giáo dục phổ biến và có hiệu quả cao. Thầy giáo, cha mẹ bao giờ cũng là hình mẫu
gần gũi đối với trẻ. Bởi vẫy đạo đức của
người làm thầy, làm cha mẹ rất quan trọng
đối với việc hình thành lối sống, cách nhìn nhận của trẻ. Bản thân người lớn
không trung thực thì làm sao có thể dạy cho trẻ em trung thực.
Trường sư phạm
cần có một chương trình giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức làm thầy nói
riêng cho sinh viên., thể hiện
trong nội dung giảng dạy, trong các học
phần, trong ác môn tự chọn, trong hoạt đông ngoại khóa v.v. Ở ĐHSP quốc gia Hàn Quốc ( Hàn Quốc có nhiều trường đại học sư phạm, nhưng chỉ có
một trường ĐHSP quốc gia ) có một bộ môn
gọi là “ Bộ môn Giáo dục đạo đức quốc gia” ( Department of National Ethics Educatuion ). Để có được những người
thầy tốt, những giáo viên tốt, thì ngay trong trường sư phạm, sinh viên không phải chỉ được cung cấp một vốn kiến thức cần thiết mà còn phải được
nhận thức đầy đủ về đạo đức của người làm thầy, được rèn luyện để trở thành một thầy giáo có tư cách. Chỉ chú
ý đến việc nâng cao tri thức, hiểu biết mà coi nhẹ vấn đề đạo đức là nguy cơ đối với mọi xã hội. Albert Einstein đã từng cảnh báo : “ Tôi thậm chí còn tin rằng, việc quá đề cao
quan điểm “ tri thức thuần túy” – quan điểm thường chú trọng vào các khía cạnh
cụ thể và thực tiễn trong nền giáo dục của chúng ta – đã trực tiếp dẫn tới việc
làm nguy hại các giá trị đạo đức” ( Thế giới như tôi thấy, Nxb. Tri Thức,2006,
tr.40-41)
Mỗi nền giáo dục đều có truyền thống, bản sắc
riêng của mình. Giáo dục Việt Nam vốn có truyền thống đề cao giá trị đạo đức : Tiên học Lễ, Hậu học Văn, Tôn sư trọng đạo.Đó cũng là đặc điểm của văn hóa, lối sống của người Việt Nam nói chung. Trên con đường hiện đại hóa và hôi nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam phải mạnh dạn từ bỏ những quan niệm lạc hậu,
hòa vào dòng chảy chung của giáo dục hiện đại, nhưng đồng thời cũng phải biết
giữ lại những giá trị tốt đẹp đã ăn sâu vào tâm lí, đời sống tinh thần của dân
tộc, tạo nên cốt cách và sức vững bền của dân tộc. Giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường nhằm phát huy và giữ gìn truyền thống ấy. Muốn làm được điều đó, không thể không quan tâm đến vấn đề đạo đức của người thầy, của những người sẽ làm thầy,
tức sinh viên của các trường sư phạm.
Cuối cùng, đổi mới đào tạo sư phạm liên
quan đến một vấn đề nữa- đó là tuyển sinh vào trường sư phạm. Dư luận xã hội gần
đây rộ lên những ý kiến khác nhau xung
quanh chiều cao và ngoại hình của các thí sinh thi vào sư phạm. Bộ GD & ĐT thì
có năm điều ước đối với giáo dục nước nhà trong tương lai mà một trong những điều ước ấy là mong làm sao ngày càng có nhiều học sinh giỏi thi vào
ngành sư phạm. Những hiện tượng trên chứng
tỏ tuyển sinh vào trường sư phạm là việc rất đáng quan tâm, liên quan đến chất
lượng đào tạo của nhà trường và chất lượng chất giáo viên nói chung.
Ai cũng biết
muốn có đội ngũ giáo viên được đào tạo tốt, chất lượng đầu vào ở các trường sư phạm cũng phải tốt
và vì vậy nếu trường sư phạm thu hút được nhiều học sinh giỏi thi vào trường thì đó quả thật là diễm phúc cho ngành giáo dục.
Nhiều năm qua nhà nước và Bộ GD-ĐT đã thực hiện nhiều biện pháp để thu hút sinh
viên giỏi vào học sư phạm, nhưng kết quả hầu như không đáng kể, nếu không muốn nói là thất bại nếu
so sánh với chính sách và số tiền nhà nước đã bỏ ra. Vì sao vậy ? Nguyên nhân lớn
nhất là vì mong ước và chủ trương ấy không thực tế, thậm chí ảo tưởng. Thực
tế là không phải chỉ ở nước ta mà rất nhiều nơi trên thế giới, sinh viên giỏi
không muốn thi vào trường sư phạm. Do tính chất mô phạm của ngành nghề. Do
lương bổng và chế độ đãi ngộ sau khi ra trường và do nhiều nguyên nhân khác.
Trong hoàn cảnh
đó thay vì ra sức ngóng chờ có nhiều thi sinh giỏi đăng ký vào trường, các trường
sư phạm , song song với các chính sách khuyến khích những học sinh xuất sắc, nên chú trọng những học sinh tuy không thực giỏi nhưng có năng
khiếu sư phạm, có tâm huyết với nghề dạy
học, bộc lộ thái độ trân trọng và yêu thương trẻ em. Trường sư phạm tuyệt đối không thể chấp nhận tuyển những học sinh trình độ văn hóa yếu và kém.
Nhưng trường sư phạm cũng không thể trông chờ vào những học sinh giỏi, vì vậy cần
nghĩ đến những hướng khác nữa nếu điều
đó đảm bảo để có một đội ngũ nhà giáo tương lai yêu người, yêu nghề, biết cách dạy trẻ.
Nhìn chung
nên quan niệm nghề nhà giáo là một nghề đặc biệt, Đặc biệt vì nó không làm ra sản
phẩm vật chất mà đào tạo con người. Đã là nghề đặc biệt thì yêu cầu tuyển người
vào làm nghề cũng phải có những yêu cầu riêng. Nó không đòi hỏi năng khiếu như
tuyển sinh vào trường Nhạc, trường Mỹ
thuật, nhưng chắc chắn không thể giống
như đa số các trường đại học khác. Hiểu điều này để thấy việc một số trường sư
phạm đề ra tiêu chuẩn chiều cao, ngoại hình của thí sinh thi vào sư phạm cũng
là điều dễ hiểu, thậm chí cần thiết, cần ủng hộ. Và nếu xem sức khỏe, ngoại hình là tiêu chuẩn thì có đúng không nếu bỏ qua tấm lòng yêu trẻ,
yêu nghề, khả năng ăn nói, diễn đạt, viết chữ như những biểu hiện của “ năng
khiếu “ sư phạm, như những tiêu chí để tuyển sinh vào trường sư phạm?
Thay đổi
cách tuyển sinh, thay đổi nội dung và
phương thức đào tạo của các trường sư phạm là khâu mấu chốt trong việc nâng cao
chất lượng giáo viên . Nhưng đây quả thực là điều không đơn giản, không dễ thực
hiện. Nhiều người có thể nghĩ rằng hôm nay mà nói về giáo dục đạo đức, xây dựng
nhân cách văn hóa cho sinh viên sư phạm hay cho giáo viên thì có phần ảo tưởng.
Cuộc sống xung quanh nhà trường đang đặt ra quá nhiều vấn đề gay gắt. Đồng
lương, niềm tin, môi trường- môi trường tự nhiên và môi trương nhân văn, công
nghệ thông tin và không gian mạng. Biết bao nhiêu vấn đề mà thầy giáo và nhà
trường dường như cảm thấy bất lực. Nhưng nếu chờ đợi thì bao giờ cho đên tháng Mười. Vì vậy nếu quyết tâm, mỗi người làm một
chút thì vẫn có thể hy vọng vào những gì tốt đẹp sẽ đến.
Tóm lại, đổi mới đào tạo giáo viên ở
các trường sư phạm là một yêu cầu cấp thiết. Cấu tạo lại các bộ phận, các
ngành, các khoa trong trường, cải tiến nội dung, chương trình đào tạo, nâng cao
tính liên thông với chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông, bồi dưỡng
vốn văn hóa chung , năng lực và kỹ năng sư phạm, tư duy giáo dục và đặc biệt là
đạo đức làm thầy cho sinh viên, đó là những vấn đề đặt ra không chỉ với lãnh đạo
các trường sư phạm mà cả với các nhà quản trị giáo dục ở các cấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Education in Thailand 1999, Bangkok, by
Office of the National Education Commission
2. Education in Korea 1999-2000, Ministry of
Education , Republic of Korea
3. Kyoto University of Education – Japan
4. Faculty of Education, Kagawa University –
Japan
5. Index of majors, Undergraduate and
Graduate Degree Programs in Japan 2000-2001, Association of Intrenational
Education, Japan
6. Korea National University of Education,2000
7. Undergraduate Programs, The University of
Newcastle, Australia
8. Albert Einstein, Thế giới như tôi thấy,
Nxb. Tri thức, HN, 2006
9. Phạm Hồng Quang, Hà Trần Phương, Nguyễn
Danh Nam: Mô hình đào tạo giáo viên của một số nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Giáo dục, số 466, 11/2019, tr. 6-11
10. Nguyễn Thị Hồng, Hà Thị Thu Thủy : Đề xuất
xây dựng mô hình đào tạo giáo viên ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
Tạp chí Giáo dục, 10/2016, tr. 49-52