TÌM VỀ DÂN GIAN

PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

Nói đến dân gian là nói đến cái gì đó dân dã, đến cái thuộc lớp người bình dân mà trước hết là lớp người thuộc tầng lớp dưới, những người nông dân ở các vùng quê tay lấm chân bùn. Hai tiếng dân gian gợi lên cảm giác về cái gì đó không chính qui, không chính thống, về sự giản dị, mộc mạc, chân tình. Văn học dân gian chính là văn học gắn với dân gian trong nghĩa ấy.

Lâu nay nói đến văn học dân gian người ta thường nghĩ ngay đến tính truyền miệng và tính tập thể, đến tình yêu quê hương, kinh nghiệm sản xuất, tình yêu nam nữ, tinh thần chống áo bức bóc lột. Đây đúng là những đặc điểm cơ bản và phổ biến của nó. Ca dao hay chuyện cổ tích thường không phải do một người sáng tác và thường tồn tại dưới hình thức truyền khẩu. Nói đến tính tập thể và tính truyền miệng là nhấn mạnh đến đặc điểm về phương thức sáng tác và phương thức lưu truyền của tác phẩm văn học dân gian. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nghiên cứu  các sáng tác dân gian. Tuy  nhiên đôi khi sự hấp dẫn của những nghiên cứu hình thức và loại hình có thể khiến người ta quên lãng những tính chất cơ bản, không kém phần quan trọng, cái tạo nên hồn cốt của các tác phẩm tự sự và thơ ca trữ tình dân gian. Đó mới chính là những cái giải thích lí do tồn tại của văn học dân gian, ý nghĩa của nó đối với đời sống con người, giải thích vì sao nó được lưu giữ, truyền bá trong dân gian từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Khái niệm “dân gian” thường được đặt ra trong sự đối lập với khái niệm “ bác học”. Văn học dân gian là một bộ phận văn học nằm trong quan hệ đối sánh với văn học bác học. Trong mối quan hệ này dân gian hay văn học dân gian hiện ra như một tiếng nói khác với tiếng nói chính thống, quan phương, một tiếng nói mang giọng điệu khác, nội dung khác. Khi đọc câu ca dao:

Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan

hay :

Sông Hương  nước chảy lờ đờ

Dưới sông có đĩ, trên bờ có vua

chúng ta hiểu ngay rằng đây không phải là tiếng nói “ được phép” lưu hành công khai, chính thống mà chỉ là tiếng nói lưu truyền trong dân gian. Có thể nói tính không chính thống ấy là một nét cơ bản tạo nên nhiều đặc điểm khác về  nội dung và hình thức của văn thơ dân gian. Không chính thống không có nghĩa lúc nào cũng mang tính chất đối kháng, như trường hợp câu thơ “Con ơi nhớ lấy câu này…”. Không chính thống ở đây có thể có nhiều nghĩa. Nó có thể hàm nghĩa một tiếng nói phê phán, đối lập :

Con quan thì lại làm quan

Con nhà kẻ khó đốt than cả ngày

Nhưng phần nhiều nó là tiếng nói không công khai, tiếng nói của những người bình dân nói với nhau, có khi bông đùa, châm biếm:

Ban ngày quan lớn như thần

Ban đêm quan lớn tần mần như ma

có khi chỉ là chuyện tình cảm khó nói công khai :

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

Truyện tiếu lâm và ca dao trữ tình là hai thể loại tiêu biểu cho tính chất “ phi chính thống” của văn học dân gian. Những truyện tiếu lâm thì thường không thể xuất bản và đọc to lên giữa chỗ đông người, còn ca dao, nhất là ca dao tình yêu thì nhiều câu vượt cả ra ngoài lễ giáo.

Tính phi chính thống làm cho văn học dân gian có sức hấp dẫn riêng. Đó là sự hấp dẫn của cái “ không được phép”, hấp dẫn của cái khác, của một thứ giọng lạ so với giọng chính, nhất là khi cái lạ ấy không còn chỉ là cái lạ về chữ nghĩa, âm điệu mà chủ yếu là cái lạ về những cái nói ra, cái lạ của nội dung chữ nghĩa. Trong bất cứ xã hội nào, nhất là xã hội phong kiến trước đây, tầng lớp yếu thế bao giờ cũng cần có một không gian tinh thần riêng, khác với không gian  chính thống. Người ta sống với nhau, giao lưu với nhau trong môi trường dân gian, tức không gian tinh thần riêng ấy. Văn học dân gian vừa là ngôn ngữ, ký hiệu giao tiếp, vừa là món ăn tinh thần của con người sống trong không gian ấy. Hiểu  được điểm này là nắm được tinh thần của văn học dân gian, giải thích được vì sao  trong thời đại hiện nay vẫn tồn tại văn học dân gian, những truyên tiếu lâm, những bài thơ mang tính  dân gian.

Như đã nói ở trên, tính không chính thống của văn học dân gian không chỉ nằm ở sự đối kháng, đối lập mà cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những gì khác nhiều hay ít với cái cái chính thống, quan phương. Lấy thí dụ thái độ đối với vấn đề đạo đức. Nếu văn chương bác học tập trung vào  đạo đức xã hội, đạo đức công dân mà trước đây thường đươc nhắc đến bằng các khái niệm trung, hiếu, lễ, nghĩa, thì văn học dân gian thường hướng vào phương diện đạo lí ăn ở, đạo lí làm người. Không phải ngẫu nhiên mà những câu như :

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước thì thương nhau cùng

không có nhiều trong ca dao. Nhiều nhất vẫn là những câu về tình nghĩa gia đình, về quan hệ cha mẹ và con cái, quan hệ vợ chồng, anh em. Trong những quan hệ này, văn học dân gian không chỉ đề cao tình yêu thương, sự găn bó mà còn nhấn mạnh đến mặt đạo lí tronh tình cảm . Nói đến  quan hệ giữa con cái với cha mẹ, câu thơ được phổ biến nhiều nhất là câu thơ nhắc về đạo lí :

Công cha như núi Thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Đạo lí cũng là cái cốt lõi trong quan hệ vợ chồng :

Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng có quên

***

Đã rằng là nghĩa vợ chồng

Dầu cho nghiêng núi cạn sông chẳng rời

Ca dao tình yêu bên cạnh những câu buồn nhớ, khao khát yêu thương  nhiều nhất vẫn là những câu nhắc nhở về sự tử tế, thủy chung, tức là nhắc nhở về đạo lí làm người của những người yêu nhau :

Nào khi gánh nặng em chờ

Qua truông em đợi, bây giờ phụ em

***

Lời nguyền trước cũng như sau

Ta không ham vui bỏ bạn, bạn chớ tham giàu bỏ ta

Văn học dân gian là cái nôi nuôi dưỡng đạo lí và những phẩm chât cơ bản của đạo làm người. Đọc truyện cổ tích, ca dao cũng như truyện nôm khuyết danh ( Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa v.v.) và sáng tác của những nhà văn như Hồ Biểu Chánh, chúng ta thấy câu chuyện và chủ đề hầu hết đều xoay quanh cách xử thế và lẽ ở đời, đều đề cao lòng hiếu nghĩa, thực thà, phê phán những kẻ tham lam, phản trắc. Người bình dận quan tâm nhiều nhất không phải là những điều to tát, những lời răn dạy Trung với nhước, Trung với vua mà là những tình cảm bình dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người thân, của cha mẹ, gia đình :

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ

Câu thơ ba chữ rành rành

Chữ trung, chữ hiếu,chữ tình là ba

Chữ trung thì để phần cha

Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình

Trung, Hiếu ở đây không mang ý nghĩa xã hội nữa mà được chuyển đổi thành những phẩm chất cuả cách ứng xử trong gia đình. Đặc biệt, trong đạo lí dân gian thể hiện qua ca dao, tình cảm đối với mẹ là một nét nổi bật. Ít ở đâu trong văn  chương bác học có hình ảnh người mẹ và tinh cảm của con với mẹ cảm động như trong ca dao:

Ngôi buồn nhớ mẹ ta xưa

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương

***

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đời sống con người dù ở thời đại nào cũng rất cần một loại văn học như thế. Nó nuôi dưỡng ở con người tình yêu thương, lòng nhân từ, ý nguyên làm điều thiện, ghét cái ác, giúp con người sống nhân bản hơn. Tìm về dân gian, tìm về văn học dân gian là tìm về với đạo lí bình dân, lắng nghe tiếng nói của người bình dân về lẽ cư xử ở đời, học cách sống, cách làm người giản dị nhất. Điều này lại càng có ý nghĩa trong thời đại chúng ta, khi con người một mặt bị cuốn theo cơn lốc của công nghệ, một mặt bị xô đẩy trong cuộc cạnh tranh của kinh tế thị trường, thu hoạch được nhiều lợi ích, nhiều điều mới mẻ, thông minh và mạnh mẽ hơn nhưng đồng thời cũng yếu đuối, cô đơn và ích kỷ hơn.

Tìm về dân gian còn là tìm về với sự minh triết giản dị hình như đã bị lấn át bởi tư duy phân tích và chìm lấp trong đống tri thức phức tạp, khổng lồ chất chồng ngày một cao của nhân loại thời nay. Minh triết dân gian là môt hình thức nhận thức cuộc sống băt nguồn từ trực giác và không chịu ảnh hưởng của bất cứ giáo điều nào, bắt nguồn từ sự quan sát tự nhiên và quan sát cuộc sống của con người, là sự đúc kết trí khôn dân gian, nhưng không phải đúc kết dưới hình thức tổng kết, khái quát hóa mà đơn giản chỉ là sự cảm nhận vô tư và bằng chính trực giác sâu sắc bẩm sinh. Văn chương dân gian dạy chúng ta nhìn đời một cách giản dị, nhiều khi đến mức ngây thơ. Ở hiền gặp lành. Tre non dễ uốn, Ác giả ác báo, Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Phức tạp hóa nhiều khi che mờ bản chất của sự việc, hiện tượng. Có những thứ, nhất là những thứ thuộc về lẽ đời, nhiều khi rất đơn giản mà bị hiểu thành phức tạp :

Con vỏi con voi

Cái vòi đi trước

Hai chân trước đi trước

Hai chân sau đi sau

Còn cái đuôi đi sau rốt

Cuộc sống tự nhiên là như vậy, chân lí cuộc sống cũng giản dị như vậy. Đó là quy luật của tự nhiên. Không hiểu hoặc cố tình không hiểu cái quy luật tự nhiên đơn giản và vĩnh hằng ấy là tai họa của trí tuệ.

Văn chương dân gian bản thân nó cũng rất thô sơ. Cái thô sơ ấy không phải là sự cố tình, sự nổ lực văn chương mà đơn giản chỉ là vì để phù hợp với sự giản dị của những điều nói ra, của những chân lí được nghiệm ra trong đời:

Con cóc trong hang

Con cóc nhảy ra

Con cóc ngồi đấy

Con cóc nhảy đi

Sống sao như cóc vô vi

Nhảy ra ngồi đấy rồi đi chầu trời

Minh triết dân gian thể hiện một kiểu nhận thức thế giới đặc biệt, nhất là nhận thức về xã hội và con người. Đặc biệt ở chỗ nó không chỉ sâu sắc mà còn hết sức giản dị. Tính chất giản dị, mộc mạc này là một phẩm chất đặc sắc của các sáng tác dân gian, thể hiện cả trong những câu tục ngữ, câu thơ minh triết và những câu ca dao trữ tình . Mộc mạc trước hết là trong tình cảm :

Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Mộc mạc không chỉ trong tình cảm với con trâu. con bò, con chó con gà nuôi trong nhà. Mộc mạc , đáng yêu nhất là trong tình cảm con người. Trong tình mẹ con :

Có vàng vàng chẳng hay phô

Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe

Trong tình thương mẹ già :

Mẹ già đầu bạc như tơ

Lưng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi

Trong tình yêu trai gái :

Nói lời thì giữ lấy lời

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay

Mộc mạc cũng trong suy nghĩ :

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy là khác giống nhưng chung một giàn

Và mộc mạc cả trong cách nói, cách diễn đạt :

Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư

Sức hấp dẫn, sức mạnh của những câu chuyện cổ tích, của thơ ca trữ tình dân gian nằm chính trong chất mộc mạc, hồn nhiên của những tình cảm, suy nghĩ và cách diễn đạt này.

Đời sống dân gian, văn chương dân gian là một bộ phận của đời sống, của văn chương nói chung. Văn chương dân gian có quan hệ mật thiết với văn chương bác học, chịu ảnh hưởng của văn chương bác học, đồng thời cũng tác động không nhỏ đến nó. Từ cách nghĩ, cách cảm  đến cách nói, văn chương dân gian đã để lại dấu vết đậm nét trong sáng tác của nhiều nhà thơ, nhà văn lớn nước ta như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính v.v. Chất dân gian đã tạo thành một nét đặc sắc trong sáng tác của các nhà thơ này.

Tìm về dân gian , bởi vậy, không chỉ là tìm về với đời sống dân gian, với những giá trị dân gian, không chỉ là tìm về với văn học dân gian, với những sáng tác mộc mạc, chân thành chứa đầy cái nhìn minh triết, đạo lí bình dân và những tình cảm hồn nhiên, tình yêu quê hương, yêu thương gia đình, người thân đậm đà, tha thiết mà còn là tìm về với những giá trị, dấu vết dân gian trong sáng tác của các nhà thơ nhà văn thuộc dòng văn chương bác học, xưa cũng như nay. Việc đó vừa làm phong phú thêm hoạt động nghiên cứu văn học, vừa mang lại nhiều bài học bổ ích cho nhà nghiên cứu cả về phương diện khoa học cũng như cái nhìn nhân sinh và tình yêu cuộc sống.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.       Nguyễn Phương Châm ( 1998 ), Tính chất bác học trong ca dao xứ Nghệ, tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 46-54

2.       Cao Huy Đỉnh (1976 ), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian, Nxb. Khoa học xã hội, HN

3.       Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên ( 1972 ), Văn học dân gian ( tập 1 ), Nxb. Địa học và Trung học chuyên nghiệp, HN

4.       Kho tàng ca dao người Việt (2001), Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật và những người khác biên soạn, Nxb. Văn hóa Thông tin, HN

5.       Nguyễn Quốc Túy  ( 1995 ) Ảnh hưởng của văn hóa dân gian, ca dao, dân ca đối với Thơ Mới, trong Thơ Mới – bình minh thơ Việt Nam hiện đại, Nxb. Văn học, tr. 50- 64

6.       Tuyển tập V.IA.Propp, tập 1 ( 2003 ), Nxb. Văn hóa Dân tộc, HN

7.       Văn hóa dân gian - những phương pháp nghiên cứu ( 1990 ), Nxb. Khoa học xã hội, HN

 

N.T.K.N

 

 

 

 

 

 

Gởi
Bài được đọc nhiều nhất
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 4
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 7
Chủ nhật

 
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31