KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT
GÁNH NẶNG
ĐƯỜNG XA
GS.TSKH.
LÊ NGỌC TRÀ
ẤN
TƯỢNG VỀ THỰC TRẠNG
Trong một phương diện nào đó có
thể nói khoa học xã hội và nhân văn của nước ta so với các nước châu Âu còn
trẻ. Những công trình nghiên cứu có tính chất khoa học theo nghĩa hiện đại của
từ này chỉ mời xuất hiện cách đây chưa đầy một thế kỷ. Bây giờ ở Việt
Ấn tượng ấy không phải là
ngẫu nhiên.Đối với nhiều người, khoa học đồng nghĩa với sự “chính xác”, vì vậy
chỉ có những “khoa học chính xác”, thường được hiểu là các khoa học tự nhiên,
sử dụng phương pháp định lượng mới gọi là khoa học. Quan niệm này phần nào đã
cản trở việc xem những ngành nghiên cứu xã hội như những khoa học,thậm chí có
lúc có nơi nó được xem chủ yếu như một bộ phận của công tác tuyên huấn,công tác
tư tưởng. Mặt khác ấn tượng trên cũng không hẳn là không có căn cứ.Trong tiếng
Việt khi nói “khoa học xã hội và nhân văn”hoặc “các khoa học xã hội và nhân văn”nhiều người vẫn
nghĩ đây chỉ là cách gọi tắt của “các khoa học xã hội và khoa học nhân văn”, trong khi trong tiếng Anh khi nói “Social sciences and Humanities”thì người ta
buộc phải hiểu là chỉ có một số bộ môn nghiên cứu về xã hội như Xã hội học, Kinh
tế học, Chính trị học, Địa lý học, Văn hóa học v.v. mới được gọi là những khoa
học (sciences) thuộc khoa học xã hội(Social sciences), còn Triết học, Tôn giáo, Văn học , Nghệ thuật học v.v. không
phải là các khoa học (sciences) mà là những ngành tri thức (branches of
knowledge), những lĩnh vực nghiên cứu (subjects of study, fields of study)
thuộc nhóm ngành Nhân văn (Humanities), lấy sự phân tích và trao đổi tư
tưởng, quan niệm làm chính chứ không là giải thích hay chứng minh dựa vào
những phương pháp định lượng mà các khoa học thường sử dụng. Sự phân biệt này
rất cần thiết cho việc nhận thức và đánh giá hiện trạng nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn ở Việt
Nhiều người đã
nói về sự lạc hậu của khoa học xã hội và nhân văn nước ta. Sự lạc hậu hay như
thừa nhận của cựu Thủ tướng Phan Văn Khải là sự “không thành công” của việc chỉ
đạo công tác khoa học, được hiểu là trong đó có khoa học xã hội và nhân văn,
biểu hiện như thế nào? Xét dưới góc khoa học, với tư cách là những khoa học
(sciences), rõ ràng nhiều công trình
nghiên cứu thuộc linh vực khoa học xã hội của chúng ta chất lượng chưa cao.
Trước hết là ở tính “khoa học”. Đã là khoa học thì yêu cầu về tính khách quan của sự nghiên cứu
phải đặt lên hàng đầu. Những kết luận cần phải được rút ra từ chính sự phân
tích số liệu và logic của lập luận chứ không phải từ một ý đồ có sẵn, được áp
đặt từ bên ngoài, nhằm minh họa cho một đường lối, chính sách nào đó. Đã là
khoa học thì tính chính xácphải trở thành yêu cầu bắt buộc đối với mọi công trình nghiên cứu, thể hiện
trong việc tập hợp dữ liệu, sưu tầm tài liệu, khảo sát thực địa, xử lý số liệu,
trích dẫn v.v. Về phương diện này một trong những điểm yếu của nhiều công trình
khoa học xã hội ở ta là tính chất khảo
cứu chưa cao, còn nặng về lý
luận và phán xét chung chung và đặc biệt là chưa chú trọng sử dụng phương pháp định lượng , khiến cho
các nghiên cứu ít mang tính hiện đại,
từ đó phần nào xa lạ với các công trình của giới khoa học xã hội quốc tế.
Còn đối với các
bộ môn thuộc ngành nhân văn, bên cạnh những nhược điểm về tính khảo cứu và
nghiên cứu, khâu yếu nhất có lẽ vẫn là tính
độc lập của tư tưởng, tính chất sáng
tạo và mới mẻ trong quan niệm. Khá nhiều công trình nghiên cứu về
triết học, văn học, nghệ thuật vẫn loay hoay trong cái khung cũ, tiếp tục bàn
về những vấn đề và những khái niệm đã ra đời trong bối cảnh xã hội nửa thế kỷ
trước ở Việt Nam và các nước XHCN trước đây. Nói chung rất ít công trình có một
nền tảng triết học, có tư tưởng và lại càng ít hơn nữa những tư tưởng được
triển khai một cách hệ thống, triệt để, mang dáng dấp một học thuyết, một
trường phái. Phần nhiều là du nhập, vay mượn những lý thuyết nào đó ở nước
ngoài rồi lắp ráp, vận dụng, phổ biến trong trường đại học và giới nghiên cứu.
Đáng buồn hơn, trong nhiều lĩnh vực, các nhà chuyên môn chưa tiếp cận được với
những thành tựu mới của thế giới, nhiều trào lưu khá phổ biến ở nước ngoài đã
mấy thập niên rồi như Giải cấu trúc (Deconstruction), Nữ quyền luận (Feminism),
Hậu hiện đại (Postmodernism), Hậu thực dân (Postcolonialism) v.v. chưa tìm thấy
tiếng vang đáng kể trong nghiên cứu của các tác giả Việt Nam.
Nhìn chung lại,
ấn tượng về sự “không thành công” của khoa học nói chung và khoa học xã hội và
nhân văn nói riêng là có thật. Nhiều lĩnh vực nghiên cứu còn thiếu hoặc chưa
phát triển (Chính sách Xã hội, Chính trị học, Quản lý, Luật học, Giáo dục học,
Tôn giáo và tôn giáo so sánh v.v.). Số lượng các công trình xuất sắc, có tầm cỡ
còn hiếm. Chất tuyên huấn trong nhiều công trình nghiên cứu còn khá đậm nét.
Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ khoa học xã hội và nhân văn chưa cao,
thường mỗi người làm nhiều thứ, mỗi thứ một chút, ít chuyên sâu, thành ra ít có
chuyên gia và chuyên gia giỏi lại càng hiếm. Nói đúng ra chúng ta cũng có một
số nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn xuất sắc .Phần nhiều họ thuộc thế
hệ được đào tạo từ thời Pháp, trước năm 1945. Nhưng ở đây quan trọng không phải
từng cá nhân mà là cả cái nền. Tài năng cá nhân là cái thuộc về ngẫu nhiên, đời
nào cũng có. Trách nhiệm của xã hội chủ yếu là trách nhiệm tạo ra cái nền, bởi
vì xây dựng cả cái nền mới khó và chính sự trì trệ hay phát triển của cả cái
nền mới trực tiếp liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Theo nghĩa đó, nếu thừa nhận rằng sự phát triển của khoa học hiện nay chưa đáp
ứng nhu cầu xây dựng đất nước, rằng nước ta vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu thì
trách nhiệm về sự chậm phát triển này liên quan trước hết không phải đến khoa
học tự nhiên mà đến khoa học xã hội và nhân văn. Còn vì sao khoa học xã hội và
nhân văn lại lạc hậu, góp phần kéo theo sự lạc hậu của đất nước thì đó lại là
một vấn đề đòi hỏi phải xem xét kỹ riêng.
Năm 1917 trong
một bài viết về “Thơ Baudelaire”, Phạm Quỳnh có nhận xét: “… Tình tứ của thơ Nôm ta thì có lẽ không được dồi dào lắm, cảm hứng
không được phong phú bằng thơ các nước; tuy không phải là không có cái thú
thanh cao, cái giọng thâm trầm, nhưng dường như “ngắn hơi” không hô hấp được
mạnh, đọc lên có cảm giác như con chim chưa bay lên đã mỏi cánh, mong sao mà
vượt bể lên ngàn được?”[1]. Không biết
nhận xét của Phạm Quỳnh đúng hay sai, nhưng chắc cảm giác của ông về sự “ngắn hơi” của thơ văn nước nhà là một
cảm giác có thực. Và có lẽ không phải chỉ của thơ văn. “Về tính chất tinh thần thì người Việt
Chắc có lẽ cũng
do đó mà người Việt
Chính vì thiên
về óc thực tiễn và trí tưởng tượng không được phát huy đến tận cùng nên chúng
ta thấy trong văn hoá Việt
Khuynh hướng
thực tiễn này đã ảnh hưởng đến tính chất của các hoạt động và công trình văn
hoá truyền thống, ở đó “não sáng tác thì
ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hoá thì rất tài” (Đào Duy Anh,
Sđd.tr.23). Cũng từ đây đã sinh ra tính lắp ráp (bricolage) như một đặc điểm quan
trọng của văn hoá Việt Nam mà về sau này nhà nghiên cứu Phan Ngọc cũng đã đi
sâu phân tích.
Những nét trên
đây đã để lại dấu ấn khá rõ rệt trong các công trình khoa học xã hội và nhân
văn hiện nay. So với gần một thế kỷ trước đây, khoa học xã hội và nhân văn nước
ta đã tiến một bước dài, có những thành tựu to lớn, một số nhược điểm cố hữu đã
được khắc phục phần nào. Nhưng hình như quán tính của truyền thống vẫn còn rất
lớn. Phân biệt đâu là những nét thuộc về “cố tật”, đâu là những cái do hoàn
cảnh lịch sử - xã hội nhất thời tạo nên, đâu là những thứ khó mà sửa được và
đâu là những cái có thể khắc phục dần dần không phải là dễ. Tuy nhiên sự phân
biệt này rất cần thiết vì nó giúp chúng ta một mặt không quá ảo tưởng, một mặt cũng
không quá bi quan, xem mọi thứ khó mà khá lên được.
MINH HOẠ, PHẢN BIỆN, HAY
...
Khoa học xã hội
và nhân văn là lĩnh vực của những nghiên cứu về xã hội và con người, lĩnh vực
của sự trao đổi tư tưởng. Có những khái niệm đối với khoa học tự nhiên là bình
thường, nhưng đối với khoa học xã hội và nhân văn lại trở thành điều kiện, một
đòi hỏi mà nếu không có thì khó thực hiện được những công trình có giá trị.
Chẳng hạn, một trong những vấn đề tồn tại trong giới khoa học xã hội và nhân văn
nước ta lâu nay là vấn đề tính Đảng và tính khoa học. Đối với nhà nghiên
cứu quan trọng là sự chính xác, trung thực và khách quan, trong khi tính Đảng
lại yêu cầu tính khuynh hướng, tức là cái có lợi về phương diện chính trị đối
với Đảng hay chính quyền. Hai cái này không phải lúc nào cũng gặp nhau. Đó là
cái khó cho những người hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở
Việt
Mặt khác sự bao
cấp về tư tưởng trong nhiều năm qua cũng đã hạn chế khá nhiều tìm tòi của
các nhà nghiên cứu các vấn đề xã hội và con người. Học thuyết Mác - Lênin dường
như là cái đã hoàn chỉnh và có sẵn, chỉ cần học tập, nghiên cứu và vận
dụng mà thôi. Lập trường vô sản và thế giới quan duy vật trở thành nền tảng lý
luận, phương pháp luận duy nhất cho
mọi nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn. Những công trình đặt cơ sở trên
những hệ quy chiếu khác dễ bị phê phán, kết án, chụp mũ. Từ đây chúng ta hiểu
vì sao có hiện tượng “suy dinh dưỡng” trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn. Nhiều cuốn sách chỉ lắp lại những mệnh đề có sẵn, không có tư tưởng gì độc
lập và mới mẻ. Nếu nói như một nhân vật trong “Tội ác và Trừng phạt” của
Dostoievski: “Đau khổ đi, trong đau khổ
có tư tưởng”, thì số đông các nhà nghiên cứu của chúng ta rất ít có tư
tưởng, bởi vì ở đây hình như mọi thứ đã có sẵn, đầy đủ và an bài, chẳng việc gì
mà đau khổ, đau khổ có khi sinh ra đi lạc đường thì lại còn đau khổ hơn.
Một hiện tượng
khác cũng thường được nói đến là xu hướng
minh hoạ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta. Minh hoạ ở
đây có hai mặt. Một mặt là sự minh hoạ cho một tư tưởng nào đó bằng hình ảnh,
hình tượng, hay diễn giải các khái niệm, ý tưởng ở trên dội xuống, một mặt đó
là những nghiên cứu triển khai, phục vụ cho một chủ trương, chính sách, thậm
chí là cả một đường lối, ví dụ như muốn đẩy mạnh trồng sắn thì phải chứng minh
là trồng sắn có lợi, ăn sắn bổ hơn ăn gạo; muốn phát triển xây dựng hợp tác xã
thì phải chứng minh ưu thế của làm ăn hợp tác xã so với làm ăn cá thể. Những
nghiên cứu triển khai nhiều khi là cần thiết, giúp các nhà quản lý xã hội
thuyết phục quần chúng, tổ chức tốt việc thực hiện. Những năm qua, phần lớn các
công trình nghiên cứu được cấp kinh phí nhà nước về khoa học xã hội và nhân văn
ở nước ta đi theo hướng này. Trong trường hợp nếu may mà các chủ trương chỉ đạo
đúng đắn, hợp lý, thì dĩ nhiên các nghiên cứu minh hoạ cũng có đóng góp nhất
định. Tuy nhiên thực tế cho thấy không phải lúc nào cũng như vậy.
Khoa học, dù là
khoa học tự nhiên hay xã hội, luôn luôn tôn trọng tính khách quan và mang tính
độc lập. Đó chính là sức mạnh và lý do tồn tại của nó. Các nhà khoa học vẫn làm
công việc chứng minh nhưng đó là chứng minh cho một giả thuyết khoa học. Còn
đối với chính trị, chính sách, thì vai trò tốt nhất của khoa học là phản biện. Đã là phản biện thì có thể
tán thành, mà cũng có thể bác bỏ, nói ngược. Rất tiếc là cho đến nay trong xã
hội ta kiểu phản biện tán thành vẫn là phổ biến, còn phản biện ngược thì vẫn
hiếm hoi. Điều này không chỉ làm hại uy tín của giới khoa học trước mắt dân
chúng mà còn làm giảm vai trò và sự đóng góp của nó đối với xã hội, bởi vì nó
đã không ngăn cản được những quyết định thiếu sáng suốt có ảnh hưởng đến lợi
ích chung.Thật ra đối với người hoạch định chính sách (policymakers), khôn
ngoan nhất là biết sử dụng khoa học -sử dụng không theo nghĩa là chỉ biết dùng
nó để minh hoạ hay ca tụng, mà tôn trọng tính khách quan và có căn cứ của nó,
tôn trọng cả tiếng nói ngược nhiều khi rất khó chịu của nó, lắng nghe và rút ra
những kết luận không phải lúc nào cũng phù hợp với các chuẩn mực có sẵn hay
những dự tính từ đầu. Nhưng muốn được như vậy nhà lãnh đạo phải có lý trí đủ
mạnh và bản lĩnh vững vàng. Những phẩm chất này của họ trong một hoàn cảnh lịch
sử - xã hội nào đó cũng là một điều kiện cho khoa học xã hội và nhân văn phát
triển.
Đó là nói quan
hệ của khoa học xã hội và nhân văn với chính trị, hay nói đúng hơn là chính
quyền. Tuy nhiên quan hệ này không phải là toàn bộ bản chất của khoa học xã hội
và nhân văn. Xét đến cùng KHXH và NV là một hoạt động tinh thần của con người,
một hình thức “nhân đôi mình lên”
bằng “lý luận” bên cạnh sự nhân đôi
mình lên thông qua “hoạt động thực tiễn”(Hegel-“Mỹ học”,tiếng
Nga,T.1,Moscow,1968,T.37). Nó là lĩnh vực thể hiện sự phát triển tự do tinh
thần của con người. Tự do là dấu hiệu và cũng là điều kiện để khoa học xã hội
và nhân văn phát triển. Khoa học xã hội và nhân văn có thể minh hoạ hay phản
biện, nhưng trên hết nó phải là một hoạt động nhận thức độc lập, một cuộc đi
tìm, tìm cả cái hữu hình và cái vô hình, cái hữu hạn và vô hạn, tìm có thể đúng
và có thể sai, sai đúng chỉ là tương đối.Trong quá trình tìm tòi,khám phá và
sáng tạo ấy sẽ xuất hiện vô vàn những ý tưởng,những tư tưởng,những học thuyết
mà trong số đó sẽ có những cái có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển ý thức của
con người,đến toàn xã hội,đến vận mệnh của dân tộc,thậm chí của cả nhân loại.Khổng
Tử, Descates, Marx là những ví dụ hết sức rõ ràng.
Theo nghĩa ấy
sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn chỉ có thể đạt được trong một xã
hội dân trí phát triển, một xã
hội dân chủ, tôn trọng sáng tạo của cá nhân, và tự do tinh
thần của con người. Đó là điều kiện để xây dựng một nền khoa học xã hội và
nhân văn tiên tiến, là môi trường có thể tạo ra những nhà nghiên cứu không chỉ
am hiểu về chuyên môn mà còn là nhà văn hoá, nhà tư tưởng.
LẬP
TRÌNH CHO TƯƠNG LAI
Làm thế nào để xây dựng và phát triển khoa học xã hội và nhân văn nước ta thành một nền khoa học xã hội và nhân văn tiêu biểu.
Dĩ nhiên sẽ phải
cần nhiều giải pháp khác nhau. Nhưng có lẽ cái chính không phải là ở các giải
pháp cụ thể. Khoa học xã hội và nhân văn là lĩnh vực của ý thức xã hội, của tư
tưởng. Một nền khoa học xã hội và nhân
văn tiên tiến thì trước hết tư tưởng của nó phải tiên tiến. Ở Việt
Chính trong quá
trình hội nhập triệt để ấy, nhờ tiếp thu các nguồn tư tưởng khác nhau, khoa học
xã hội và nhân văn Việt Nam sẽ đa nguyên hơn, nền tảng phương pháp luận của nó
cũng sẽ đa dạng hơn, không bị bó hẹp trong một học thuyết hay một lập trường
cứng nhắc. Nhờ hội nhập, ảnh hưởng của quan niệm “chính trị là thống soái” sẽ
phai nhạt dần, quan hệ giữa chính trị, chính quyền và khoa học xã hội và nhân
văn sẽ nới lỏng đi, khoa học xã hội và nhân văn không còn được coi như một công
cụ của công tác tư tưởng mà sẽ được đối xử như một lĩnh vực hoạt động tinh thần
độc lập, một khoa học có vị trí riêng, cần được cư xử bình đẳng. Nhờ chủ động
hội nhập, khoa học xã hội và nhân văn nước ta sẽ có cơ hội tiếp cận với những
tư tưởng tiên tiến của thời đại, từ đó hiện đại hóa mình, trước hết không chỉ ở
phương pháp nghiên cứu mà ở tầm nhìn, ở quan niệm và điều đó sẽ có ý nghĩa rất
lớn trong việc góp phần thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của toàn xã hội. Đến lượt
mình, sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến việc lựa chọn con đường phát
triển của đất nước.
Thật ra để xây
dựng một nền khoa học xã hội và nhân văn hiện đại còn cần một điều kiện quan
trọng nữa đó là TIỀN. Khoa học xã
hội và nhân văn nước ta lâu nay còn yếu kém một phần vì nó không có nhiều tiền,
mà tiền thì đều do Nhà nước chi và quản lý. Nhà nghiên cứu muốn có đủ tiền để
làm và làm theo ý mình thật không dễ. Kinh phí nhà nước chủ yếu tập trung vào một số dự án,đề tài trọng điểm ở trung
ương và rơi vào một số nhóm,một số người thân quen hoặc có chức có quyền.Hàng
ngàn nhà nghiên cứu ở các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu ở địa phương
chỉ nhận được những đồng tiền nhỏ giọt,họ không được hưởng lợi từ hoạt động
nghiên cứu của mình và cũng không được đối xử như những nhà khoa học.Muốn có
được quyền lợi nhà khoa học phải chọn con đường làm quan,tức là để có chức có
quyền.Trong giới khoa học cũng vậy mà trong giới sáng tác văn học nghệ thuật
cũng vậy.Đó là một nguy cơ đối với đội ngũ trí thức của chúng ta.
Mới đây, chính
phủ vừa ban hành Nghị định 115, được xem như là “Khoán 10 trong khoa học”. Đây
là một hình thức nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị nghiên cứu và tăng
cường tính hiệu quả của công tác khoa học. Tuy nhiên cần phải cân nhắc và tính
toán cụ thể cho từng ngành,từng trường hợp,nhất là đối với các ngành khoa học
lý thuyết và đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn vốn là những ngành hay
được xem là “viển vông”, giá trị của nghiên cứu thường mang tính chất chiến lược
và gián tiếp hơn là hiệu quả sử dụng trực tiếp. Chúng ta hay nói về sự lãng phí
trong nghiên cứu khoa học.Sự lãng phí này là có thật nhưng đó không phải là do
các nghiên cứu này không ứng dụng được ngay trong thực tế mà là do chất lượng,
sự vô bổ về phương diện khoa học của các đề tài được nghiệm thu. Xét về một
phương diện nào đó, khoa học xã hội và nhân văn cũng là “vô ích”. “Vô ích” như
cái đẹp, như nghệ thuật. Nhưng “vô ích” về mặt này nó lại vô cùng hữu ích về
mặt khác. Không có chúng, con người chỉ biết ngắm mình trong tự nhiên và sản
phẩm lao động do mình tạo ra, trong khi quan trọng là phải ý thức được về mình và
về những ý thức khác, tạo nên sự đối thoại như là bản chất của sự sống phát
triển.
Đầu tư kinh phí
cho nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn là hết sức cần thiết. Song không nên
và không thể chỉ trông chờ vào Nhà nước. Đòi hỏi bao cấp về tiền bạc mà lại
muốn thoát ra khỏi bao cấp về tư tưởng là điều không phải lúc nào cũng thực
hiện được. Cần xã hội hóa hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Cần
rất nhiều quỹ “phi chính phủ” và các nhà tài trợ, các mạnh thường quân. Tiếc
rằng hiện nay ở ta, những nguồn tiền này gần như rất ít và nếu có thì chủ yếu
vẫn là dành cho các cuộc thi hoa hậu, các show ca nhạc và biểu diễn thời trang!
* *
*
Sẽ không có một
lập trình nào cho tương lai của khoa học xã hội và nhân văn Việt
TPHCM.
28.07.2006
L.N.T