Những hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao
Nguyễn Thị Kim Ngân
Bài đã đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Viện Văn học – Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, số 06/2011, tr.89-100.
Thiên nhiên là một chủ đề lớn của ca dao. Đọc kỹ ca dao mỗi vùng có thể hình dung ra diện mạo thiên nhiên của địa phương cũng như hiểu được mối quan hệ của con người với thiên nhiênthể hiện trong lao động sản xuất, sinh hoạt và đời sống tình cảm. Thiên nhiên đi vào ca dao, tạo thành một bộ phận quan trọng của thế giới nghệ thuật, tạo nên nét đặc sắc của ca dao từng vùng miền.
Từ một cảnh vật hiện thực, tồn tại khách quan, thiên nhiên bước vào ca dao, trở thành một cảnh vật trong thế giới nghệ thuật – một thế giới chỉ tồn tại trong hư ảo, trong tưởng tượng. Trong thế giới nghệ thuật, cảnh vật thiên nhiên vừa phản chiếu cảnh vật hiện thực, vừa in đậm dấu ấn tư tưởng tình cảm của người sáng tạo. Ở đây thiên nhiên có một diện mạo khác, nhờ nó gắn với ngôn ngữ, với những hình thức diễn đạt của sáng tác dân gian, với những thủ pháp có tính nghệ thuật. Trong những hình thức này, thiên nhiên hiện ra trong một diện mạo mới, có thể gọi là diện mạo thẩm mỹ. Diện mạo thẩm mỹ chính là diện mạo của thiên nhiên trong thế giới nghệ thuật của ca dao, khác với diện mạo hiện thực là diện mạo của thiên nhiên bên ngoài, in bóng trong ca dao và được nhận biết qua ca dao.
Để tìm hiểu diện mạo thẩm mỹ của thiên nhiên trong ca dao, trước hết cần khảo sát xem thiên nhiên đã bước vào câu ca dao như thế nào, đã xuất hiện trong tình huống nào, dưới hình thức nào, với chức năng gì. Nghiên cứu những hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao cũng là một cách nhận dạng diện mạo thẩm mỹ của thiên nhiên trong ca dao.
1. Thiên nhiên trong những cụm từ với nghĩa xác định
Kháo sát những từ chỉ thiên nhiên trong ca dao, chúng tôi bắt gặp rất nhiều câu có dạng sau đây:
Bấy lâu cách trở nước non
Ai ngỡ lòng đó vẫn còn thương đây
Công anh lên xuống ra vào
Dã tràng se cát, sóng ba đàolượn đi
Đây thương đó, đó thương đây
Làm chi cách trở nước mây đôi đường
Khi xa một bước cũng xa
Khi gần núi bảy, sông ba cũng gần
Không thương thật thì nói làm chi
Những lời trăng gió nói thì ai nghe
Mấy lâu biển dặn non thề
Anh yêu em đó coi về lại quên
Mấy lâu mưa Sở gió Tần
Lòng đây thương đó mười phần chưa nguôi
Mai sau thành vợ thành chồng
Hai sương một nắng ra đồng lúa khoai
Một niềm vàng đá khăng khăng
Ba thu cũng đợi, chín trăng cũng chờ
Muốn cho có đó có đây
Sơn lâm há dễ một cây nên rừng.
Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú
Đất Rạch Giá vượn hót chim kêu
Quản chi nắng sớm mưa chiều
Lên doi xuống vịnh cũng chèo thăm em
Thống kê 4175 câu ca dao xứ Nghệ (1) chúng tôi thấy có 80 câu có từ chỉ thiên nhiên trong dạng nói trên. Ở đây cảnh vật thiên nhiên như: rừng, núi, sông, biển, cây cối, dã tràng, trăng, gió, mưa, nắng, sương, mây, nước… không hiện ra như một hình ảnh, một đối tượng được quan sát, mô tả mà như một yếu tố trong cụm từ có ý nghĩa xác định. Cái xuất xứ của nó như một hình ảnh tự nhiên đã phai nhạt từ lâu, bây giờ cảnh, vật chỉ còn là một kí hiệu, mang một ý nghĩa nào đó. Ví dụ, trong câu “Mai sau thành vợ thành chồng / Hai sương một nắng ra đồng lúa khoai” thì “nắng” và “sương” không còn là hiện tượng tự nhiên cụ thể nữa mà chỉ còn là một yếu tố trong câu nói mang tính chất thành ngữ “một nắng hai sương” hay “hai sương một nắng” , chỉ sự vất vả, nhọc nhằn của công việc nhà nông.
Trong những câu ca dao loại này, thiên nhiên có thể xuất hiện dưới dạng những từ thường là từ kép và nhiều trường hợp là từ Hán Việt:
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai, ai có nhớ mình chăng ai
Đã dở lời hẹn với ta
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
Ai ơi nghĩ lại cho mình
Giang sơn nghìn dặm công trình biết bao
Cũng có khi chúng ta bắt gặp thiên nhiên trong những câu ca dao với biến thái của những từ kiểu này:
Ra về dặn nước thề non
Đồng tâm đồng chí, ta còn dài lâu
Cùng nhau căn dặn đến nơi
Chỉ non thề biển một lời đinh ninh
Tuy nhiên phổ biến hơn cả là sự xuất hiện của thiên nhiên dưới hình thức những tổ hợp mang tính thành ngữ kiểu như: góc bể chân trời, lên thác xuống ghềnh, dãi nắng dầm sương, vật đổi sao dời… Ví dụ:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Anh nói với em sơn cùng bể tận
Em nói với anh nguyệt khuyết sao băng
Đôi ta như rồng lượn trông trăng
Dẫu mà xa nhau đi nữa cũng khăng khăng đợi chờ
Mặc ai vật đổi sao dời
Tâm giao ta cứ hẹn lời tâm giao
Bơ vơ góc bể chân trời
Những nơi thiên hạ nào người tri âm
Em xuôi anh ngược sao đành
Phòng khi lên thác xuống ghềnh cậy ai
Trong hình thức xuất hiện này, thiên nhiên mang một diện mạo thẩm mỹ riêng. Đó là những hình ảnh được lược giản tối đa, không có màu sắc, đường nét cụ thể, chỉ còn mang tính tượng trưng tuy chưa phải là tượng trưng nghệ thuật.
Tìm hiểu hình thức xuất hiện của thiên nhiên ở dạng này sẽ giúp chúng ta hiểu được mức độ, liều lượng tính văn chương của lời ca dao, từ đó tiến tới nhận ra nét riêng của ngôn ngữ ca dao từng vùng.
2. Thiên nhiên dưới dạng hiện thực được tả, kể
Ca dao trữ tình cũng như văn học nói chung thường mang yếu tố ghi chép, miêu tả. Miêu tả một cảnh tượng, một sự kiện, một hoạt động, một sự vật, một con người. Thiên nhiên là một trong những đối tượng được miêu tả khá phổ biến trong ca dao. Trong 4175 câu ca dao tập hợp trong hai cuốn “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” đã dẫn trên đây, có 1621 câu có từ chỉ thiên nhiên, trong đó số câu chứa đựng từ chỉ thiên nhiên dưới dạng cảnh vật được miêu tả chiếm tới 776 câu. Hình ảnh thiên nhiên hiện ra ở đây có nhiều loại khác nhau.
Thường gặp nhiều nhất là cảnh quê hương đất nước:
Non Hồng ai đắp mà cao
Sông Lam ai bới ai đào mà sâu
Lam Cầu có núi Thất Tinh
Một hàng bảy ngọn như hình ngôi sao
Quê anh ở đất Phương Cần
Có dừa xanh mọc quanh sân khắp làng
Nhiều trường hợp cảnh thiên nhiên không gắn với địa danh cụ thể mà chỉ là cảnh chung chung:
Quê em trước biển sau sông
Trông trời đổi gió mà mong thuyền về
Làng ta phong cảnh hữu tình
Con giang uốn khúc như hình con long
Đường đi quanh quắt ruột dê
Chim kêu vượn hót, dựa kề núi non
Đặc biệt khá phổ biến là trường hợp thiên nhiên được tái hiện dưới dạng môi trường sinh hoạt, môi trường lao động:
Nhác trông lên cái hòn Thè
Tiều phu hái củi chiều về thảnh thơi
Trông về núi mục mà coi
Coi người đập đá, coi người tạc bia
Bước chân đến mạn sông Bùng
Muốn sang gặp bạn, hãi hùng sông sâu
Một ngày hai bữa cơm đèn
Khi xuống bể cả khi lên rừng già
Rất nhiều từ chỉ cảnh vật thiên nhiên đi vào ca dao vì chúng gắn với hoạt động sản xuất của người nông dân:
Lạy trời thổi ngọn gió đông
Xuôi buồm thuận gió cho chồng tôi vô
Quá giang lên núi bẻ chè
Mua giang buộc chặt quảy về Hoành Sơn
Nghe tin rú Mọ lắm chè
Sơn lâm nhiều gỗ ta kết bè buôn chung
Nguyệt Đàm có hến em mò
Có rau em hái, có đò em đi
Đặc điểm chung của cảnh vật thiên nhiên trong những câu ca dao loại trên là tính chất thực của nó. Các từ “sông” (“giang”), “núi”, “bể”, “rừng”, “chim”, “vượn”, “chè”, “rau”, “gỗ” …. ở đây đều mang ý nghĩa hiện thực, chỉ các cảnh, vật tồn tại thực chứ không mang một ý nghĩa tu từ, nghĩa bóng nào khác. Chức năng nghệ thuật của hình ảnh thiên nhiên ở đây là nó mô tả, đại diện cho cảnh vật thiên nhiên bên ngoài. Thiên nhiên xuất hiện trong câu ca dao với tư cách là đối tượng được miêu tả chứ không phải như hình ảnh có tính chất biểu trưng. Do đặc trưng của thi pháp ca dao, những cảnh vật này tuy là đối tượng miêu tả nhưng thường ít được khắc họa kỹ, chi tiết. Tuy nhiên nếu so với cảnh vật thiên nhiên xuất hiện dưới những hình thức khác, cảnh vật ở đây cũng vẫn có những nét cụ thể hơn nhờ kèm theo các tính từ hay những vế mang tính chất giải thích. Ví dụ:
Nước sông Giăng vừa trong vừa mát
Đường chợ Rạng lắm cát dễ đi
Hỡi ai là bạn tương tư
Nhớ ai nhớ cả đường đi lối về
Đặng Sơn người đẹp nước trong
Dâu non xanh bãi, tơ vàng đầy sân
Xanh xanh dòng nước êm đềm
Dưới thuyền xuôi ngược, trên chợ Chiền vui thay
Khảo sát hình thức xuất hiện của thiên nhiên dưới dạng những cảnh vật được quan sát, miêu tả không chỉ giúp chúng ta tiếp cận với đặc điểm tư duy nghệ thuật của ca dao mà qua đó cũng hiểu thêm diện mạo thiên nhiên mỗi vùng – cái thể hiện rõ rệt nhất sự gắn bó của con người với môi trường tự nhiên cũng như tình yêu quê hương đất nước trong ca dao.
3. Thiên nhiên như phương tiện trữ tình
Trong ca dao bên cạnh những từ chỉ thiên nhiên xuất hiện dưới dạng cụm từ thành ngữ hoặc dưới dạng đối tượng của sự quan sát, miêu tả còn có một dạng hết sức phổ biến nữa, tạm gọi là thiên nhiên như phương tiện trữ tình. Chúng ta thử so sánh từ “trăng” trong hai câu ca dao sau:
Đêm khuya trăng lệch trời trong
Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha
Và
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió cho nàng bén anh
Trong câu đầu “trăng” là một sự vật thực, nằm trong một cảnh tượng hiện thực, diễn tả khung cảnh, hoàn cảnh, môi trường tự nhiên, nơi người con trai / con gái đang muốn tỏ tình trao duyên. Trong câu sau “trăng” không còn mang ý nghĩa là một sự vật hiện thực được quan sát, ngắm nhìn mà mang một nghĩa khác có tính chất tượng trưng nhờ hình thức nhân cách hóa.
Ca dao có rất nhiều trường hợp tương tự:
Gió mưachi lắm hỡi người
Lúa mùa toan gặt, lụt trôi đầy đồng
Dở dang dang dở khi chiều
Mưa sa chớp giật cũng liều mà đi
Hoặc Chim bay về núi túi (tối) rồi
Sao không lo liệu còn ngồi chi đây
Đôi ta như cặp chim non
Khi vui ríu rít khi buồn vẩn vơ
Như chúng ta thấy, trong câu đầu thiên nhiên (“mưa”, “chim”) xuất hiện với ý nghĩa hoàn toàn hiện thực của nó, còn trong câu sau cảnh vật thiên nhiên mang một ý nghĩa khác: Ở đây hình ảnh thiên nhiên không được dùng để chỉ cái tương tự với nó, tồn tại trong thế giới bên ngoài ca dao mà được mượn để diễn tả một cái khác. Có nhiều cách “mượn” thiên nhiên, sử dụng thiên nhiên như một phương tiện diễn tả trong ca dao.
a) Mượn hình ảnh thiên nhiên để dẫn tới nói tình cảm của mình. Đây là những câu như:
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này
Gió dập cành cau, gió đánh cành cau
Nghe lời bạn nói ta đau đớn lòng
Gió dập cành mua, gió đánh cành mua
Nghe lời bạn nói ta ưa miệng cười
Gió đập cành mây, gió đánh cành mây
Nghe lời bạn nói, anh ngây ngất lòng
Chim bay sóng vỗ mạn tàu
Yêu em thì phải qua bàu lội sông
Điểm chung của những câu ca dao loại này là mối quan hệ lỏng lẻo giữa câu trước và câu sau, tức là giữa hình ảnh thiên nhiên và nội dung tình ý được diễn tả trong câu sau:
Trăng lên khỏi ngọn cây tre
Lấy chồng chợ Thượng chở ba ghe tiền đồng
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Lấy ai thì lấy, còn chờ đợi ai
Nước lên lai láng vồng khoai
Ta thương thầm nhớ trộm, biết cùng ai tỏ tường
Thường thì những cảnh vật tự nhiên ở đây xuất hiện hết sức ngẫu nhiên, không có liên hệ gì với ý nghĩa câu ca dao, thậm chí nhiều khi có lẽ chỉ do yêu cầu về hiệp vần mà cảnh vật được đưa vào. Ví dụ:
Cây thầu đâu, lá lại thầu đâu
Anh về từ đó, em sầu từ đây
Gió đưa cho khói lên mây
Cột nhà tốt rễ xanh cây em sẽ màng
Con hươu cao cổ là con hươu bò
Con cò ngóc cổ là con cò bay
Thương em anh nắm cổ tay
Mắt tình lơ láo dạ này bâng khuâng
Cây cao có lá tròn vo
Cho em chung cậu, chung o (cô) với chàng
Nhưng cũng có rất nhiều trường hợp cảnh vật thiên nhiên được đưa vào có liên hệ xa với ý câu sau. Ví dụ:
Một đàn cò trắng bay qua
Biết mặt mà chẳng biết nhà làm quen
Chim xanh đậu ngon cây xanh
Em còn chờ chi nữa mà không đi với anh ta tự tình
Bờ sông lại lở xuống sông
Không ai tìm bạn bằng công ta tìm
Trong câu thứ nhất hình ảnh đàn cò trắng bay qua không kịp nhận rõ có một chút gần gũi với ý nói thấy em mà không biết nhà em. Ở câu thứ hai vế trước với vế sau gần nhau ở ý nói có nơi có chốn: chim đậu ngọn cây, sao em không tìm chốn đậu (“không đi với anh”). Trong câu thứ ba, hình ảnh “bờ sông lại lở xuống sông” gợi lên ý về cái thường xuyên tiếp diễn, gần với ý vế sau nói người con trai lúc nào cũng nghĩ đến bạn, đi tìm bạn, không quản thời gian. Tuy nhiên ở đây những liên tưởng còn khá xa nhau.
Trong một số câu khác, sự tương đồng giữa hình ảnh thiên nhiên và ý thơ bộc lộ rõ hơn. Chẳng hạn trong câu:
Gió đưa tàu chuối tan tành
Em đưa duyên đi bán bốn cửa thành không ai mua
Vế đầu và vế sau có hai điểm gần nhau: thứ nhất là cùng hành động “đưa”(gió đưa, em đưa), thứ hai là cũng có ý nghĩa tan nát, không thành, ê chề (tàu chuối tan tành, bán bốn cửa thành không ai mua). Tương tự như vậy trong ca dao cũng có những câu như:
Khúc sông bên lở bên bồi
Thương em lúc đứng lúc ngồi cũng thương
Hoặc: Trời mưa lâm thâm ướt dầm lá khế
Anh thương người trong Huế mới ra
Ở đây sự nối tiếp của câu trước và câu sau hoàn toàn hợp lý, cảnh vật thiên nhiên xuất hiện không có tính chất ngẫu nhiên mà chứa đựng một không khí, một năng lượng tình cảm hoàn toàn phù hợp với tâm trạng con người hoặc có khả năng gợi nên tậm trạng đó. Tuy nhiên dù cảnh và ý có chút tương đồng thì ở đây cảnh vẫn không phải là đối tượng mô tả mà chỉ là “mượn” đưa vào nhằm thực hiện chức năng nghệ thuật là làm cái cớ, cái hứng để nói cái ý tiếp theo, kể cả trong những trường hợp cảnh rất thực, có tên tuổi, gắn với địa danh cụ thể như trong những câu ca dao sau:
Con suối nó chảy loanh quanh
Chảy qua truông Hến, chảy vành truông Nâu
Chảy xuống đến chỗ anh câu
Không câu được cá, anh câu cô nàng
Hoặc
Sông Lam Giang càng ngày càng rộng
Núi Hồng Lĩnh mỗi bậc một cao
Bấy lâu nay nguyệt tỏ với đào
Búp hoa tàn hết nhụy, chàng tính sao bây giờ
Lối mượn cảnh thiên nhiên làm câu mở đầu, bắc cầu để dẫn tới nói lên tình ý ở câu sau là một hình thức phổ biến, rất điển hình cho thi pháp ca dao và thơ ca truyền thống mà chúng ta hay gọi là thể Hứng. Sự xuất hiện của thiên nhiên dưới hình thức này chứng tỏ thiên nhiên trong ca dao không chỉ hiện ra dưới dạng đối tượng miêu tả, đối tượng nhận thức mà còn hiện ra như một phương tiện nghê thuật, đánh dấu một trình độ sáng tạo trong sáng tác ca dao, một bước phát triển của tính văn học của ca dao, một bước chuyển từ lời văn vần tường thuật sang lời văn vần trữ tình, xích gần tới hành động sáng tạo nghệ thuật thực sự.
b) Mượn cảnh vật thiên nhiên để so sánh
So sánh là một thuộc tính của tư duy, ngôn ngữ. “Trắng như tuyết”, “vàng như nghệ”, “cao như núi”, “dài như sông”, “nhanh như sóc”, “đẹp như hoa” v.v..là những cách nói rất phổ biến hàng ngày. Ca dao vừa là lời nói bình thường, vừa là lời văn nghệ thuật. Ca dao sử dụng so sánh vừa như công cụ tư duy vừa như phương tiện nghệ thuật và một trong những hình ảnh xuất hiện nhiều nhất trong các câu so sánh là cảnh vật thiên nhiên. Đối với ca dao, sông, núi, biển, trời, chim, cá, hoa, cây v..v.. không phải chỉ là hiện thực cần mô tả, nhận thức mà còn là công cụ để tư duy, là những thứ cụ thể được mượn để diễn tả những ý nghĩ, tình cảm những cái không nắm bắt, không nhìn thấy được. Trong thời đại và hoàn cảnh mà con người còn đang sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên thì điều đó lại càng phổ biến.
Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều cảnh vật thiên nhiên xuất hiện dưới dạng những câu so sánh:
Em như cái búp hoa hồng
Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu
Chờ em như bướm chờ hoa
Chờ duyên chờ phận nên giang ca đến giờ
Vị trí và tính chất của cảnh vật thiên nhiên ở đây rất đa dạng.
Trước hết thiên nhiên xuất hiện dưới dạng một cảnh vật được so sánh với một sự vật khác để làm rõ hơn tính chất của sự vật đó theo kiểu so sánh một danh từ với một danh từ. Ví dụ:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ở dạng này nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ nhận thấy nhiều điểm thú vị. Chẳng hạn, cảnh vật thiên nhiên được so sánh chủ yếu là với con người. Bắt đầu là những nét bên ngoài, hình dáng, cơ thể:
Ăn chi cho má em hồng
Gội chi cho tóc như dòng nướcxanh
Da em như đọt chuối non
Lưng em thắt đáy như con tò vò
Mặttuyếtdatrăng
Lông màylá liễu, hàm rănghạt huyền
Miệng cười tựa nụ hoa sen
Mình trông nhan sắc như đèn như sao
Nhìn em mắt sáng trăng rằm
Cho anh thơm một cái, anh trả dăm quan tiền
Bảy yêu tính hạnh thuần hòa
Tám yêu dáng dấp như hoa trên cành
Rồi đến những cái trừu tượng hơn, không nhìn thấy bằng mắt, tức là thế giới bên trong, tình cảm con người:
Mấy lâu nhắc nhớ tưởng trông
Dạ như nước chảy dưới sông liền liền
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang sâu mấy trượng thì lòng bấy nhiêu
Cuối cùng là chính bản thân con người với cuộc đời, tình yêu, số phận của nó:
Mẹ già như chuối chín cây
Sao anh không lo liệu để em đây liệu cùng
Thân em như cánh phù dung
Sớm mai thì nở, chiều đông thì tàn
Mình em như cá rô thia
Ra sông mắc lưới, ra đìa mắc câu
Em như quả bí trên cây
Dang tay anh ngắt những ngày còn son
Chính ở đây đã hình thành kiểu công thức rất phổ biến trong ca dao là: “Em như”. “Thân em như”, “Mình em như” và cả trường hợp “Anh như”, “Đôi ta như”:
Anh như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhấc được mình mà bay
Anh như mây kéo giữa trời
Em như khói tản rong chơi chốn này
Đôi ta như rắn liu điu
Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau
Đôi ta như thể con tằm
Con quấn con quýt, cùng nằm một nong
Những câu so sánh với dạng “Anh như…” ít hơn trường hợp “ Em như”,“Thân em như”. Lý giải điều này chắc chắn cũng sẽ rất thú vị.
Bên cạnh trường hợp một danh từ chỉ đối tượng được dùng để so sánh với những danh từ chỉ người, cảnh vật thiên nhiên còn hiện ra trong kiểu câu so sánh hành động với hành động. Ví dụ:
Anh trông em như cá trông mưa
Ngày trông đêm tưởng như đò đưa trông nồm
Ai làm cho đó xa đây
Cho trăng xa cuội, cho mây xa trời
Hoặc
Chàng ơi thương thiếp mồ côi
Như bèo cạn nước biết trôi đàng nào
Ở đây thiên nhiên hiện ra không phải trong dạng tính danh mà trong dạng một cảnh vật chuyển động, hoạt động, tương tự như hành động của con người muốn được làm rõ trong sự so sánh:
Chờ em như bướm chờ hoa
Chờ duyên chờ phận nên giang ca đến giừ
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể Đông
Bạn ơi có nhớ ta không
Ta thì nhớ bạn như rồng nhớ mưa
Trên đây là hai dạng xuất hiện chủ yếu của thiên nhiên dưới hình thức so sánh. Ngoài ra cũng còn những dạng khác kiểu như những câu sau đây:
Công đâu mà tát nước sông
Công đâu mà bạn với chồng người ta
Khi nào rú Cấm hết cây
Hồ Sen hết nước, họ này hết quan
Nước Khe, chè núi, củi rừng
Công đâu mà giận người dưng cho phiền
Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn chưa nắm lấy tay đã cười
Tuy nhiên trong trường hợp này, hình thức so sánh có vẻ như không còn thuần khiết nữa mà đã mang dáng dấp của ẩn dụ. Từ so sánh trực tiếp đến ẩn dụ cũng sẽ là một bước chuyển trong tư duy nghệ thuật của ca dao nói riêng và sáng tác văn học nói chung. Tìm hiểu hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao dưới dạng so sánh cũng chính là tìm hiểu sự vận động của tư duy nghệ thuật, tính chất đa dạng của các hình thức diễn tả trong ca dao mà cụ thể ở đây là lối so sánh, còn gọi là thể Tỷ, một khái niệm quan trọng trong thi pháp ca dao và thơ văn Trung đại.
c) . Mượn cảnh vật thiên nhiên để ngụ ý
Thiên nhiên mang lại cho câu ca dao tính văn học đầy đủ nhất khi nó xuất hiện dưới dạng những cảnh vật được ngụ ý, tức là dưới hình thức những ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng. Ở đây cảnh vật thiên nhiên gần như đã trút hết ý nghĩa hiện thực của nó để mang một ý nghĩa khác hoặc vừa giữ ý nghĩa hiện thực vừa mang thêm một ý nghĩa nữa hay nói theo cách thông thường, vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng và nghĩa bóng mới là cái chính chứ không phải là nghĩa đen. Ví dụ, trong câu:
Mấy lâu cách trở giang biên
Cá sầu không lội, chim phiền không bay
Hoặc:
Dập dìu bướm lượn vườn hoa
Vườn người bướm lượn, vườn ta bướm vờn
thì hình ảnh cá, chim, bướm ở đây đều không mang ý nghĩa thực, khác hình ảnh cảnh vật trong những câu sau:
Cỏ vàng rồi lại cỏ xanh
Hoa tàn rồi lại trên cành đầy hoa
Hoặc
Bấy lâu nước hết sen khô
Bây giờ có nước, sen hồ lại tươi
Trong những câu ca dao mượn cảnh vật để ngụ ý, thiên nhiên cũng xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Đó có thể là những hình ảnh có tính chất hoán dụ, chẳng hạn:
Đi ngang thấy búp hoa đào
Muốn vô mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai
Búp hoa sen lai láng giữa hồ
Giơ tay muốn bẻ, sợ trong chùa có sư…
Quạ đã biết phận quạ đen
Quạ đâu lại dám mon men cùng cò
Hoặc đó có thể là những hình ảnh mang tính chất tượng trưng, ví dụ như:
Xạ hương kia ở trên rừng
Khi thơm bưng bít mười tầng cũng thơm
Muốn chơi hoa lý cho cao
Chơi hoa chiêng chiếng bờ ao thiếu gì
Nhưng thường gặp nhiều nhất có lẽ là trường hợp cảnh vật thiên nhiên được sử dụng trong những câu mang tính ẩn dụ:
Đương cơn nước đục lờ đờ
Sao em không đợi không chờ nước trong
Ai làm cho vượn lìa cây
Cho chim lìa tổ, cho mây lìa rồng
Cây đa trốc gốc trôi rồi
Đò đưa bến khác, anh ngồi đợi ai
Các ẩn dụ gắn với hình ảnh thiên nhiên được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ tạo nên những biểu tượng thiên nhiên trong ca dao:
Cây đa bến nước con đò
Biết rằng bạn cũ còn chờ ta không
Chữ rằng nhất nhật do ta
Gió với trăng là bạn, bướm với hoa là tình
Anh về bên xã nay mai
Bỏ cây đào liễu cho ai vun trồng
Các biểu tượng liên quan đến thiên nhiên như: cây đa bến nước, gió trăng, bướm hoa, ong bướm, đào liễu, loan phượng v .v... khá phổ biến trong ca dao các miền.
Khi khảo sát hình ảnh thiên nhiên trong trường hợp chúng được mượn để ngụ ý, chúng tôi nhận thấy không phải lúc nào cảnh vật thiên nhiên cũng xuất hiện dưới dạng thuần túy là hoán dụ, ẩn dụ hay tượng trưng mà nhiều khi hiện ra trong một văn cảnh rất khó chỉ rõ đâu là hình thức này hay hình thức kia. Ví dụ trong câu ca dao:
Ai xui con bướm hái hoa
Ai xui chàng đến lân la cõi này
Hoặc
Chàng về dặm cội cho bền
Gió rung mặc gió, em không quên ngãi chàng
Ở đây các thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân cách hóa, hoán dụ, tượng trưng, ẩn dụ dường như đều có mặt, pha trộn vào nhau, khó phân biệt.
Trên đây là ba hình thức xuất hiện chủ yếu của thiên nhiên trong ca dao. Ngoài ra còn một số dạng khác, cá biệt hoặc ít phổ biến hơn.
Tìm hiểu hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao là một cách tìm hiểu diện mạo thẩm mỹ của thiên nhiên trong ca dao. Nó giúp chúng ta biết được bằng cách nào mà thiên nhiên đã bước vào ca dao, hiện diện trong thế giới nghệ thuật của ca dao. Nhờ tiếp cận vấn đề theo cách này chúng ta hiểu sâu sắc hơn vai trò của thiên nhiên trong sự hình thành tư duy nghệ thuật của ca dao cũng như đặc điểm của bản thân kiểu sáng tác này. Khảo sát những hình thức xuất hiện cơ bản của thiên nhiên trong cuốn “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” đã dẫn ở trên, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Tên các chương |
Số câu trong chương |
Số câu có từ chỉ thiên nhiên |
Số câu có từ chỉ thiên nhiên trong dạng cụm từ với nghĩa xác định |
Số câu có từ chỉ thiên nhiên như hiện thực được tả, kể |
Số câu có từ chỉ thiên nhiên được dùng như phương tiện trữ tình |
Chương I: Vài điểm về địa phương xứ Nghệ |
419 |
228 |
1 |
214 |
38 |
Chương II: Tình yêu nam nữ |
1894 |
747 |
65 |
204 |
478 |
Chương III: Quan hệ gia đình và hôn nhân |
475 |
165 |
3 |
60 |
102 |
Chương IV: Cuộc sống trong xã hội nông nghiệp |
416 |
175 |
0 |
163 |
10 |
Chương V: Quan điểm hoạt động và kinh nghiệm cuộc sống |
271 |
100 |
2 |
42 |
56 |
Chương VI: Phê phán thói hư tật xấu và phong tục lạc hậu |
291 |
85 |
3 |
41 |
41 |
Chương VII: Tinh thần dân tộc và quan hệ giai cấp |
409 |
121 |
6 |
52 |
63 |
Tổng kết chung |
4175 |
1621 |
80 |
776 |
788 |
Từ bảng thống kê trên đây chúng ta nhận thấy những câu có từ chỉ thiên nhiên dưới dạng cảnh thực được tả, kể và những câu có từ chỉ thiên nhiên như phương tiện trữ tình có tỷ lệ xấp xỉ nhau: 776/1621, 778/1621. Con số này một lần nữa xác nhận đặc điểm của ca dao với tư cách là sáng tác dân gian: ca dao không phải là hoạt động sáng tạo nghệ thuật thuần túy mà gắn với sinh hoạt thực tiễn của người lao động. Trước khi trở thành lời thơ trữ tình, nó là lời văn vần nặng tính chất tự sự. Bằng chứng là ở đây bên cạnh những câu thiên nhiên hiện ra như phương tiện nghệ thuật tức là những câu mang tính “sáng tác” cao, những câu kể, tả mang tính chất ghi chép về cảnh vật thiên nhiên hiện thực cũng chiếm một số lượng lớn. Nếu có điều kiện đi sâu khảo sát hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao thuộc các chủ đề khác nhau (theo từng chương trong bảng thống kê trên đây) chúng ta sẽ thấy những điều thú vị. Ví dụ, tại sao trong ca dao tình yêu nam nữ số lượt câu sử dụng thiên nhiên dưới hình thức so sánh, ẩn dụ, tượng trưng lại lớn hơn gấp nhiều lần (478 câu/747 câu) so với ca dao về lao động sản xuất (10 câu/175 câu).
Tìm hiểu hình thức xuất hiện của thiên nhiên trong ca dao cũng mở ra cách tiếp cận với vấn đề hình thức xuất hiện của cảnh vật thiên nhiên trong văn học nói chung, từ đó giúp chúng ta hiểu sâu hơn sự tương đồng hay dị biệt giữa văn học dân gian và văn học viết, cũng như giữa các thời kỳ văn học khác nhau. Chẳng hạn, thử so sánh cách mượn thiên nhiên để tả người trong ca dao và Truyện Kiều:
Mặt tuyết da trăng
Lông mày lá liễu, hàm răng hạt huyền
Miệng cười tựa nụ hoa sen
Mình trông nhau sắc như đèn như sao
(Ca dao xứ Nghệ)
…Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Có thể nói ở đây xét về phương diện thi pháp, cách tả người của ca dao và Truyện Kiều gần giống như nhau. Điều này có thể cho phép rút ra những kết luận khác nhau về ảnh hưởng của văn học dân gian đối với sáng tác của Nguyễn Du (hay ngược lại?), về quan hệ của nhà văn với đời sống nhân dân, về ảnh hưởng của văn chương bình dân với văn chương bác học, về sự tương đồng trong tư duy nghệ thuật của những sáng tác khác nhau thuộc một giai đoạn văn học nào đó.
Nghiên cứu thiên nhiên trong ca dao là một vấn đề rất có ý nghĩa. Tìm hiểu những hình thức xuất hiện của cảnh vật thiên nhiên trong ca dao chỉ là một cách tiếp cận nhỏ nhằm đi sâu làm rõ hơn đặc điểm của ca dao, nhất là của tư duy sáng tác ca dao, trên cơ sở đó nhận thức sâu sắc hơn mối liên hệ giữa nghệ thuật với tự nhiên, và xa hơn là quan hệ của con người với thiên nhiên. Quan hệ này mới chính là cái cốt lõi, cái quan trọng không chỉ đối với khoa học mà với chính cuộc sống của con người, đặc biệt là trong thời đại hiện nay.
HCM, 15/4/2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Kính,Thi pháp ca dao, NXB ĐH Quốc gia HN, 2004
2. Kho tàng ca dao Xứ Nghệ, Tập 1, Ninh Viết Giao chủ biên (1996), NXB Nghệ An, Vinh.
3.Kho tàng ca dao Xứ Nghệ, Tập 2, Ninh Viết Giao chủ biên (1996), NXB Nghệ An, Vinh.
4. Thiên nhiên trong ca dao, Nguyễn Thị Kim Ngân biên soạn và giới thiệu (2001), NXB ĐHSP TPHCM.
1 Xem Ninh Viết Giao, “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” tập 1,2 (1996), NXB Nghệ An, Vinh.